Phật giáo ở vùng đất Quảng Bình trước thế kỷ XI
Nguyễn Văn Quảng - Đại học Khoa học, Đại học Huế
Đinh Văn Viễn - Đại học Hoa Lư, Ninh Bình
- Vài nét về vùng đất Quảng Bình trước thế kỷ XI
- Dấu ấn Phật giáo ở vùng đất Quảng Bình trước thế kỷ XI
Đáng chú ý, cuộc khai quật tại di tích này cũng tìm thấy nhiều hiện vật liên quan đến Phật giáo, rất có giá trị, tiêu biểu là: 01 tượng Phật (Budda) bằng đồng, cao 0.445m; 01 tượng Lokesvara bằng đồng, cao 0.335m; 01 tượng Prajnaparamita bằng đá, cao 0.65m; 01 tượng nhỏ của Lokesvara mạ đồng, cao 0.122m; 01 vật thờ cúng bằng kim loại, cao 0.082m; các mảnh vỡ của một bức tượng bằng sành khác và 01 mảnh vỡ Yoni (dài 0.29m, rộng phần trong 0.37m, phần ngoài 0.17m và cao 0.17m) có minh văn 2 mặt ở phần vòi, mỗi mặt 3 dòng. Nội dung minh văn ca ngợi sự thông minh, mạnh mẽ và lòng từ bi của Ratna - Lokesvara, sự giàu có của vua Jaya Sinhavarman, cũng như việc xây dựng một đền - tháp, thờ Ratna - Lokesvara ở vùng đất có tên gọi Vrddha - Ratnapura[1].
Hiện nay, di tích Đại Hữu đã trở thành phế tích, đa phần các hiện vật đã bị thất lạc. Trước đây, BT Điêu khắc Champa Đà Nẵng có lưu giữ một tượng Padmapani (Bồ tát Liên Hoa) bằng sa thạch, cao 0.97m, tạo hình trong tư thế đứng, hai tay cầm búp sen, đặt trên hai trụ đỡ, búi tóc vấn theo kiểu Jata - Mukuta và có thiết trí hình tượng Phật A Di Đà ở phía trước, niên đại thế kỷ IX - X nhưng đã bị mất năm 1988. BT Lịch sử Tp. HCM hiện đang trưng bày một tượng Phật bằng đồng[2] và một tượng Quan thế âm Bồ tát (Avalokitesvara) bằng đồng[3], niên đại thế kỷ IX - X, có nguồn gốc tại di tích Đại Hữu. Ngoài ra, tại BT Lịch sử Quốc gia cũng đang giữ một tượng Prajnaparamita bằng đá, cao 0.78m, cũng có nguồn gốc tại di tích này[4].
Dựa vào tài liệu bia ký và các tác phẩm điêu khắc, có thể khẳng định, khu đền - tháp Đại Hữu có một niên đại xây dựng dưới thời Jaya Sinhavarman (898 - 908), tức thế kỷ IX - X, nhằm cúng hiến cho Ratna - Lokesvara.
- Di tích Mỹ Đức: Hiện nay tọa lạc trên một gò đất, cao hơn mặt bằng xung quanh khoảng 0.60 - 0.70m, thuộc đội 2, thôn Mỹ Đức, xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, thuộc địa hình đồng bằng, gần sông Cẩm Lý - một nhánh của Kiến Giang.
Di tích này được P. Henri de Pirey khai quật trong những năm 1921 - 1922 nhưng không có báo cáo nào được công bố ngoài một vài thông tin từ tường thuật của các học giả người Pháp sau đó[5]. Kết quả khai quật cho thấy, khu đền - tháp Mỹ Đức gồm ba tháp chính/Kalan nằm thẳng hàng, phía trước có một tháp ba cửa (tháp cổng?) và một tháp ở phía nam, trong một vành đai vây quanh một phòng lớn nằm giữa trục của tổng thể. Những cơ sở bố trí như thế này gợi lại cùng một lúc các cơ sở ở Đại Hữu và cả những cơ sở ở Đồng Dương[6]. Cuộc khai quật cũng đã tìm thấy nhiều hiện vật thể hiện rõ tính chất Phật giáo của khu đền - tháp và thuộc cùng một phong cách với di tích Đại Hữu: 01 mảnh bia ký, không có niên đại, có hai thuật ngữ liên quan đến Phật giáo: Jagađhura và Abhayađa; 01 Garuda lớn bằng đá; 01 tượng Prajnaparamita bằng đá, 02 tượng Avalokitesvara bằng đá (01 tượng nam, 01 tượng nữ), 01 tượng bán thân Padmapani (Bồ tát Liên Hoa), 02 tượng Phật bằng đồng thau ngồi và một Maitreya (Đấng Từ bi) nhỏ bằng đồng, 01 mảnh trang trí hình sư tử bằng đồng[7].
Cũng như Đại Hữu, hiện nay, Mỹ Đức đã trở thành phế tích, các hiện vật cũng bị phân tán nhiều nơi: BT Guimet (Pháp) - 01 tượng Lokesvara; BT Điêu khắc Champa Đà Nẵng - 01 tượng Garuda, 01 tượng Lokesvara (đã mất năm 1988); BT Lịch sử Quốc gia - 01 tượng Maitreya, 01 mảnh trang trí hình sư tử; sưu tập David Weill - 01 tượng Prajnaparamita[1], số còn lại không biết ở đâu?.
Sự xuất hiện hai thuật ngữ liên quan đến Phật giáo trên tấm bia tìm được (Jagađhura và Abhayađa), cũng như sự hiện diện của các tượng Avalokitesvara (Quan Thế âm Bồ Tát), Padmapani (Bồ Tát Liên Hoa) và Prajnaparamita tại di tích trong cuộc khai quật năm 1925, cho thấy di tích đền - tháp Mỹ Đức cũng là một cơ sở thờ tự Phật giáo. Đáng chú ý, các tác phẩm này có nhiều điểm tương đồng về tiếu tượng học với loại hình tượng ở di tích Đại Hữu nên di tích đền - tháp này cũng có một niên đại xây dựng trong thời kỳ Indrapura, cuối thế kỷ IX - đầu thế kỷ X.
- Động Phong Nha (làng Phong Nha, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch) là một hang ngắn (khoảng hơn 600m) thuộc hệ sơn khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng, được các học giả người Pháp khám phá và nghiên cứu kỹ lưỡng từ cuối thế kỷ XIX. Những khám phá đó cho thấy, động Phong Nha là không chỉ là một kỳ quan thiên nhiên thế giới mà còn là nơi có nhiều trầm tích văn hóa, trong đó có văn hóa Champa, đặc biệt là Phật giáo.
Ông C.Paris, một trong những người đầu tiên, sau các nhà truyền giáo ở vùng này đến thăm động Phong Nha và “đã nhận ra ở bên phải lối vào, một bệ thờ xây bằng gạch Chàm do người An nam lắp ráp lại, hồi xưa nâng đỡ một pho tượng đá, chân bắt chéo, đeo một
svastika trước ngực, đội mũ che gáy. Pho tượng chắc đã bị đẩy xuống sông. Ở giữa động, chắc hẳn còn một bệ thờ với một pho tượng nữa”[2]. Năm 1901, trong bài viết La Religion des Chams d’après les monuments, étude suivie d’un Inventaire sommaire des monuments Chams de l’Annam, đăng trên BEFEO, L.Finot cho biết đã tìm thấy ở Phong Nha 35 hình ảnh Phật giáo Đại Thừa bằng đất nung thể hiện 5 chủ đề: 1. Đức Phật ngồi trên đài sen; 2. Hình tháp có đỉnh hình các lọng ô; 3. Bồ Tát Avalokitesvara; 4. Bồ Tát Pamapani; 5. Người ngồi trên đài sen. Các tác phẩm Phật giáo này đều có dạng gần tròn, kích thước nhỏ (0.05 - 0.10m)[3].
Năm 1909 - 1918, H. Parmentier cung cấp bản vẽ một tượng Phật, kích thước nhỏ, bằng đất nung, rất cứng, ngồi trên bệ sen, có nguồn gốc ở Phong Nha. Toàn bộ chiều cao của tượng chỉ từ 0.08 - 0.10m. Đức Phật ngồi xếp bằng tròn, bàn tay trái duỗi ra, đặt nằm trong lòng, bàn tay phải chỉ xuống đất theo động tác cổ điển. Búi tó buộc ngược thành túm trên đỉnh đầu, có lẽ là theo truyền thống Usnisa, không thấy có dấu urna. Chỉ vai phải và bàn tay trái để trần[4]. Niên đại của tác phẩm được xác định khoảng thế kỷ X.
Ngoài tượng Phật và các tiểu phẩm Phật giáo, C. Paris cũng đã thu thập được 97 bia ký, chia thành 162 tờ. Các bia ký có dạng chữ bất thường và những khó khăn trong việc dập lại chính xác, khiến việc phiên dịch các bia ký đó chưa thể tiến hành được. Tuy vậy cũng đã đọc được tên Cariputra phù hợp với tính chất Phật giáo của các hang động này[5]. Trong số các bia ký đó, Coedes George nhận ra có những bia ký có niên đại 1031[6]. Những bia ký đó hiện nay vẫn còn dưới những góc độ nhất định tại động Phong Nha.
Những dữ liệu này cho thấy, Phong Nha là trung tâm Phật giáo Đại thừa quan trọng ở khu vực bắc Champa và có thể tồn tại qua nhiều thời kỳ, từ thế kỷ IX - thế kỷ XI, sau đó được người Việt kế thừa, biến đổi nơi này thành đền thờ Chân Linh tiên nữ.
2.2.2. Bia ký
Ngoài các bia ký liên quan đến Phật giáo gắn liền với các di tích Đại Hữu, Mỹ Đức, Phong Nha như đã nói ở trên, ở vùng đất Quảng Bình, cũng tìm thấy một số bia ký liên quan đến Phật giáo, tiêu biểu là bia ký Ròn (hay còn gọi là bia Bắc Hạ). Đây là xa nhất về phía bắc của Champa.
Bia Ròn được ông Charles-B. Maybon phát hiện vào đầu thế kỷ XX gần cửa Ròn, nay thuộc huyện Quảng Trạch[7], sau đó được đưa về bảo tàng Tourane, này là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. Bia này là một rầm cửa của đền – tháp Champa, có kích thước 148 x 32 x 38 cm, được làm từ đá granite. Nội dung bia ký kể lại việc cúng dường đất đai của một vị vua mà tên tuổi không được lưu lại, ủng hộ cho nhân vật Ḍamareśvara. Danh xưng này, nghĩa là “vị chúa tể của Hỗn loạn”, thoạt nhìn gợi nghĩ đến thần Śiva. Theo Huber thì đây là danh xưng của Avalokiteśvara, tuy nhiên, quan điểm này thật khó thuyết phục. Arlo Griffiths thì cho rằng, rằng tên này (Ḍamareśvara) được Phạn hóa từ một tên Chăm và ở một dạng khác là draṃvihāra, mà có thể có nghĩa “Tu viện Dram”. Những lý do chủ yếu để nghĩ đến một nhân vật sùng bái Phật giáo hẳn là việc văn bản có đề cập đến từ vihāra (tu viện), có thể nói đến một tu viện Phật giáo[8]. Niên đại tấm bia này được xác định trong khoảng phần đầu và giữa thế kỷ IX[9].
2.2.3. Điêu khắc
- Thân tượng Phật Quảng Khê: được người Pháp phát hiện tại làng Quảng Khê vào đầu thế kỷ XX (nay thuộc xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch) cùng với một vài mảnh tượng vụn nát thuộc nhiều niên đại khác nhau, trong đó có một đầu tượng Bồ Tát (Bodhisattva). Thân tượng Phật Quảng Khê được làm bằng sa thạch, mất phần đầu và phần dưới thắt lưng trở xuống, do đó không có nhiều thông tin về tiếu tượng học. Tuy nhiên, dựa vào những gì còn lại thì nhận thấy rằng, đây là thân một pho tượng Phật nằm trong nhóm các tượng Phật có hai vai che kín, y phục xếp thành nếp, có mối liên hệ đến truyền thống những bức tượng Gupta đầu tiên. Theo Boisselier, tính chất độc đáo của thân tượng Phật ở Quảng Khê dường như nằm trong cách gắn hào quang, khác với cách gắn đối với các tượng khác và được đánh dấu bởi những chỗ hở ở mức độ các xương bả vai, tương tự như bức tượng lớn ở Bukit Seguntang, Sumatra, Indonesia, thuộc truyền thống nghệ thuật Dvaravati[10]. Thân tượng Phật Quảng Khê được xác định có niên đại tương đối nằm giữa thế kỷ IV và thế kỷ VI, thuộc nhóm các tượng Phật có hai vai che kín. Với niên đại này, đây là bằng chứng sớm nhất về dấu ấn Phật giáo Champa ở Quảng Bình.
Bộ sư tập tượng đồng ở Kẻ Nại: được Lemire sưu tầm tại Kẻ Nại (hiện nay có thể là làng Diêm Điền, phường Đức Ninh Đông, thành phố Đồng Hới), bao gồm nhiều bức tượng nhỏ bằng đồng, với nhiều phong cách và niên đại khác nhau, trong đó đáng chú ý có một tượng Avalokitesvara (Quan Thế âm Bồ tát) bằng đồng, đầu có vầng hào quang hình bầu dục, có vằng hình như ngọn lửa, chỉ liên quan tới đầu và mọc ra từ đôi vai. Y phục có một thân dài, khá tự nhiên, lướt qua trên thắt lưng bằng kim loại quý và được giữ lại bởi khăn choàng - thắt lưng và để cho thân sa xuống được tự do. Hai tai đeo những vòng tai nặng, các cổ tay và các mắt cá mang vòng thòng xuống do sức nặng của chúng. Vương miện rất hẹp, được trang trí nhưng bông hoa nhỏ, đặt trên một mái tóc có Jata cao, trên chóp có một kiểu trang trí ở đầu mút.
Ở Kẻ Nại cũng tìm thấy một bức tượng nhỏ khác thuộc sưu tập Lemire cũ, có thể là Padmapani (Bồ Tát Liên Hoa). Đồ đội có ba vương miện liên tiếp, không có tượng Amitabha; chiếc kiềng trên cổ được trang trí một hàng miếng bảo thạch nhỏ. Mặt sau của bức tượng nhỏ, dẹt, được đúc khuôn một cách cẩn thận. Niên đại bức tượng được xác định niên đại thế kỷ IX - X[11].
Ngoài những di tích, di vật quan trọng trên, theo J.Boisselier, cách Mỹ Đức tám cây số về phía Bắc, ở Thu Thư (Thủ Thư?) cũng đã sưu tầm được một vài hiện vật Phật giáo, đó là một bức tượng nhỏ của Lokesvara bằng đá và nhiều mảnh tượng Phật bằng đồng thau[12]…
- Một vài nhận xét
Hiện nay, chưa có một tài liệu nào chứng minh một cách chắc chắn thời điểm cụ thể Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào nước ta. Tuy nhiên, với những nghiên cứu về lịch sử, khảo cổ có thể thấy rằng, vào những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã có mặt ở Bắc Việt Nam, với trung tâm Phật giáo lớn nhất (và cũng là lâu đời nhất) nước ta là Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Trung tâm Phật giáo Luy Lâu có thể thành lập sớm hơn các trung tâm Bành Thành (ở Lạc Dương) và Lạc Dương (ở Hà Nam) của nhà Hán, vì Phật giáo được truyền vào Bành Thành bằng đường biển, nếu vậy thì đạo Phật chắc chắn đã đi qua Giao Châu trước, bởi vì Giao Châu là điểm giao tiếp quan trọng và chủ chốt giữa Trung Quốc với bên ngoài[13]. Đối với Champa, tư liệu sớm nhất có liên quan đến Phật giáo là bia Võ Cạnh (làng Võ Cạnh, thành phố Nha Tranh, tỉnh Khánh Hòa ngày nay), niên đại khoảng cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III[14]. Điều đó cho thấy, Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào Champa cũng rất sớm, khoảng những năm đầu công nguyên. Bằng chứng chắc chắn về sự hiện diện của Phật giáo ở Champa được ghi chép trong các tài liệu thành văn. Theo sử liệu Trung Hoa, những ghi chép đầu tiên về Phật giáo Champa vào thế kỷ VII sau Công nguyên của Thiền sư Nghĩa Tịnh: “Nghĩa Tịnh (I-Tsing) đã kể về Champa thời đó vào danh sách các quốc gia kính mến học thuyết Phật Thích Ca”[15]. Năm 605, quân nhà Tùy do tướng Lưu Phương chỉ huy đánh chiếm kinh thành của Lâm Ấp mang về những chiến lợi phẩm, trong đó có 1.350 pho kinh Phật[16].
Đối với vùng đất Quảng Bình, tư liệu sớm nhất để chứng minh sự có mặt của Phật giáo ở vùng này là mảnh thân tượng Phật Quảng Khê, có niên đại từ thế kỷ IV đến thế kỳ VI. Dù không nhiều bằng chứng, nhưng tư liệu này cho thấy Phật giáo có mặt ở Quảng Bình cũng rất sớm và là một trong những trung tâm sớm của Phật giáo Champa[17]. Đáng chú ý, theo J. Boisselier, thân tượng Phật Quảng Khê mang đậm dấu ấn của nghệ thuật Gupta, Ấn Độ[18], cho thấy mối liên hệ giữa Phật giáo Champa với Ấn Độ và nằm trong dòng chảy truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ sang Đông Nam Á/dòng Nam truyền. Con đường tơ lụa trên biển, các cảng thị và dòng sông lớn ở miền Trung nói chung, Quảng Bình nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong sự lan tỏa của Phật giáo vào miền Trung.
Từ thế kỷ III - IV cho đến thế kỷ VII, tư liệu di vật đã cho thấy sự có mặt của Phật giáo Nam truyền có nguồn gốc trực tiếp từ Ấn Độ (thể hiện qua tượng Phật Quảng Khê). Từ thế kỷ thứ VIII trở về sau, dòng Phật giáo Đại thừa Bắc truyền, mà nhất là Kim Cương thừa (vajrayāna)[19] hoạt động mạnh mẽ và để lại những dấu ấn sâu sắc đến Champa và cả Đông Nam Á.
Sau thế kỷ VII, mà nhất là trong thời kỳ Indrapura (cuối thế kỷ IX, đầu thế kỷ X), ở vùng đất Quảng Bình Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ. Quảng Bình là trung tâm Phật giáo quan trọng thứ hai (sau trung tâm Đồng Dương, Quảng Nam) của vương quốc Champa trong thời kỳ Indrapura (thế kỷ IX - X).
Sự phát triển phồn thịnh của Phật giáo Champa trong giai đoạn thế kỷ IX - X (thời kỳ Indrapura) không chỉ có thể liên quan đến sự sùng bái Phật giáo của một số vị vua dưới thời kỳ đầu của triều đại Indrapura như Jaya Indravarman II (854 - 898), Jaya Sinhavarman (898 - 908), mà còn liên quan sự phát triển của Phật giáo ở Trung Hoa trong thời kỳ này. Champa tiếp nhận những ảnh hưởng nghệ thuật Phật giáo từ phía Bắc, trong đó có Vân Nam là nơi sản xuất nhiều tượng Bồ tát Lokesvara và Tara bằng đồng cho vùng Đông Nam Á[20]. Trong lịch sử, Vân Nam là quê hương của hai vương quốc cổ Nam Chiếu (738 - 937) và Đại Lý (937 - 1253), nơi đây Mật tông Kim Cương Thừa được sùng bái từ hoàng gia cho đến thứ dân nên hình tượng Quan Thế Âm rất phổ biến; Vân Nam được các nhà nghiên cứu xem là cửa ngõ chuyển giao tôn giáo và nghệ thuật Tây Tạng đến khắp vùng Đông Nam Á thông qua con đường “Trà Mã Cổ Đạo” kết nối hai vùng đất này từ thế kỷ VII hoặc VIII cho đến giữa thế kỷ trước. Theo đó, trà được trồng phổ biến và vận chuyển từ vùng Vân Nam qua rất nhiều chặng trên những con đường mòn hẻo lánh men theo các sườn núi cao, dài hơn năm ngàn cây số, đến Tây Tạng, vì người Tây Tạng ăn nhiều thịt nên cần uống trà để dễ tiêu hóa; ngược lại, ngựa là món hàng quý giá được vận chuyển từ Tây Tạng về Vân Nam để phân phối cho vùng Đông Nam Á và Hoa Nam[21]. Theo con đường đó, Phật giáo Đại thừa từ Trung Quốc cũng đã xâm nhập vào Đông Nam Á, trong đó có Champa.
Thông qua các dấu ấn Phật giáo ở Quảng Bình, chúng ta thấy sự hiện diện của hình tượng Phật Thích Ca và các vị Bồ tát (Bồ tát Quán Thế âm - cả nam thân và nữ thân, Bồ Tát Liên Hoa) bằng nhiều chất liệu: bạc, đồng, đá. Đáng chú ý, hình ảnh của các vị Bồ Tát Quán Thế âm phổ biến hơn, nhiều hơn, cho thấy sự sùng bái mạnh mẽ hình tượng Bồ tát Quán Thế âm – người đại diện của Đức Phật, là biểu tượng của lòng từ bi (cứu khổ, ban vui). Sự tôn kính Bồ tát Quán Thế âm được thể hiện rất rõ trong bia ký Đồng Dương do vua Jaya Indravarman II dựng vào năm 875 tại Phật viện Đồng Dương (Thăng Bình, Quảng Nam): “Và trong việc tạo dựng tôn tượng Quán Thế Âm siêu việt và lỗi lạc này, được hiển sinh từ sự truyền thừa của chư Phật, ta sẽ cúng dường cho sự giải thoát [của chúng sinh] trên thế giới. Ước nguyện được học hỏi về Pháp, đức vua chánh niệm trong tâm của ngài, được trải nghiệm và liễu ngộ căn nguyên của chân lý tối thượng, ngài đã dựng tôn tượng Quán Thế Âm này bằng chính tay của ngài. Mặc dù ngài đã dâng lễ khai quang cho tôn tượng Quán Thế Âm, rực rỡ với tất cả pháp khí bảo vật bằng vàng, ngài không hề cảm thấy tự hào về công đức của mình. Ngài là người thuần đạo, không theo ngoại giáo, và những điều không được ghi chép trong kinh điển”[22].
Như vậy, qua những bằng chứng chính xác – những di vật khảo cổ đã cho thấy, Phật giáo đã được du nhập vào vùng đất Quảng Bình ngày nay từ sớm, ít nhất là thế kỷ IV. Đến giai đoạn cuối thế kỷ IX - đầu thế kỷ X, vùng đất Quảng Bình được xem là trung tâm Phật giáo quan trọng thứ 2 của Champa, chỉ sau khu Phật viện Đồng Dương (Thăng Bình, Quảng Nam). Phật giáo lúc này trở thành quốc giáo ở Champa. Bên cạnh sự ảnh hưởng của Phật giáo có nguồn gốc trực tiếp từ Ấn Độ, theo con đường phía Nam/Nam truyền, Phật giáo Champa ở khu vực này còn có mối liên hệ với Phật giáo Trung Hoa, nhất là hệ phái Kim Cương Thừa từ con đường phía Bắc/Bắc truyền, thông qua tuyến đường “tơ lụa trên biển” để xâm nhập vào Champa.
Tài liệu tham khảo:
- Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb.Thuận Hóa, Huế.
- Aurousseau L. (1926), “Nouvelles fouilles de Đại-hữu (Quảng-bình, Annam)”, BEFEO, Tome 26, pp. 359 - 362.
- Phan Xuân Biên (1991), Văn hóa Chăm, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Boisselier J. (1963), La statuaire du Champa, recherché sur cultes et L’Iconographie, Ecole Francaise D’extreme - orient, Paris.
- Coedes G. (1923), Liste generale inscriptions du Champa et du Cambodge, Imprimerie, D’extreme - orient, Ha Noi.
- Ngô Văn Doanh (2002), Văn hóa cổ Champa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
- EFEO (1918), “Chronique”, BEFEO N010, pp. 61.
- EFEO (1922), “Chronique”, BEFEO N022, pp. 372 – 375.
- Finot (1901), “La Religion des Chams d’après les monuments, étude suivie d’un Inventaire sommaire des monuments Chams de l’Annam”, BEFEO, Tome 1, pp. 25 - 26.
- Finot L., Golubev V. (1925), “Fouilles de Dai Huu”, BEFEO, Tome 25, pp. 469 - 475.
- Griffiths A., Amandine Lepoutre, William A. Southworth and Thanh Phan (2012), The Inscriptions of Campā in the Museum of Cham Sculpture at Đa Nang, Hanoi and Ho Chi Minh City, VNUHCM Publishing House.
- Guy J. (1995) “The Avalokiteśvara of Yunnan and some Southeast Asian Connections”. In South East Asia & China: Art Interaction & Commerce, tr. 64-83.
- Trần Thị Diệu Hồng (2014), “Tượng đồng Avalokitesvara Chămpa Đại Hữu là bảo vật quốc gia”, TTKH & CN, Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Bình.
- Lafont P.B (2014), Kingdom of Champa: Geographic - Population - History, International Office of USA, San Jose, California, USA.
- Majumdar, R.C (1985), History and Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Far East, 2nd - 16th Centuries A.D, Book III, The Inscriptions of Champa, Delhi: Gian Publishing House (Reprinted).
- Parmentier H. (1909), Inventaire descriptif des monuments čams de l’Annam, Tome premier, Description des monuments, Paris, Imprimerie Nationale.
- Trần Kỳ Phương, Nguyễn Thị Tú Anh (2019), “Nhận thức mới về pho tượng bồ tát bằng đồng của đồng Dương: Laksmindra - Lokesvara, Prajnaparamita hay Tara?”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Số 119 (2019), tr. 46-51.
- Nguyễn Văn Quảng (2018), Các di tích đền - tháp, thành - lũy Champa ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Schriver S. (2017), Cultural Heritage Preservation in Regional China: Tourism, Culture and Shaxi Model, PhD Thesis, The University of Western Australia: School of Social Sciences, Asian Studies (Chinese).
- Schweyer A. (2009), Buddhism in Čampā, Vietnam: Histoire et perspectives contemporaines, Moussons.
- Schweyer A. (2010), “The Birth of Champa”, Connecting Empires and States, Selected Papers from the 13th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Volume 2, Edited by Dominik Bonatz, Andreas Reinecke & Mai Lin Tjoa - Bonatz, NUS Press, Singapore.
- Sigley G. (2013), “The Ancient Tea Horse Road and the Politics of Cultural Heritage in Southwest China: Regional Identity in the Context of a Rising China”, In Cultural Heritage Politics in China (eds. T. Blumenfield and H. Silverman), New York: Springer, 235-247.
- Stein R. A (1947), “Le Lin - Yi, sa localisarion, sa con tribution à la formation du Champa et ses liens avec la Chine”, Han - hiue Bullentin du Centre d’Etudes Sinologiques de Pékin, 2.1-3, Pékin.
- Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình từ Tiền sử đến cuối thế kỷ XIX, Đề tài KHCN cấp tỉnh, Quảng Bình.
- Nguyễn Hữu Thông (2015), “Phật giáo Chăm – pa và vị trí của vùng đất Quảng Bình dưới triều đại Indrapura (thế kỷ IX – X)”, Liễu Quán tháng 5-2015, chuyên đề “Những ngôi cổ tự trên đất Quảng Bình”, tr. 22-27.
- Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[1] Boisselier J. (1963), đã dẫn, pp. 136.
[2] Parmentier H. (1909), Inventaire descriptif des monuments čams de l’Annam, Tome premier, Description des monuments, Paris, Imprimerie Nationale, p. 544.
[3] Finot L. (1901), đã dẫn, pp. 25 - 26.
[4] Parmentier H. (1909), đã dẫn, p. 545.
[5] Parmentier H. (1909), đã dẫn, p. 545.
[6] Coedes G. (1923), Liste generale inscriptions du Champa et du Cambodge, Imprimerie, D’extreme - orient, Ha Noi, pp. 26 - 27.
[7] Chúng tôi cho rằng, bia Ròn có nguồn gốc tại di tích đền – tháp Lòi Giàng, nay tọa lạc tại thôn Phú Lộc 1, xã Quảng Phú, huyện Quảng Trạch, vỉ đây là di tích đền – tháp duy nhất nằm gần cửa Ròn.
[8] Griffiths A., Amandine Lepoutre, William A. Southworth and Thanh Phan (2012), The Inscriptions of Campā in the Museum of Cham Sculpture at Đa Nang, Hanoi and Ho Chi Minh City, VNUHCM Publishing House, tr. 75-77.
[9] Griffiths A., Amandine Lepoutre, William A. Southworth and Thanh Phan (2012), đã dẫn, p. 75.
[10] Boisselier J. (1963), đã dẫn, PP. 135.
[11] Boisselier J. (1963), đã dẫn.
[12] Boisselier J. (1963), đã dẫn, p. 137
[13] Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 138.
[14] Hiện nay, vấn đề niên đại và nội dung của bia Võ Cạnh còn có nhiều tranh cải, tuy nhiên, phần lớn các ý kiến đều cho rằng, nội dung của tấm bia toát lên tinh thần Phật giáo rõ nét. theo L.Finot, nhà vua dựng bia thể hiện ý thức về sự bất thường của cuộc đời, lòng trắc ẩn đối với chúng sinh, sự hy sinh của cải của mình cho lợi ích người khác theo tinh thần Phật pháp [L. Finot (1901), đã dẫn, pp.12 - 26].
[15] Phan Xuân Biên (1991), Văn hóa Chăm, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 277.
[16] Phan Xuân Biên (1991), đã dẫn, tr. 277.
[17] Bên cạnh đó là trung tâm Kauthara (Khánh Hòa hiện nay), Amaravati (Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi).
[18] Boisselier J. (1963), đã dẫn.
[19] Kim Cương thừa (sa. vajrayāna) là tên gọi một trường phái Phật giáo xuất hiện trong khoảng thế kỉ thứ 5, 6 tại Bắc Ấn Độ. Kim cương thừa bắt nguồn từ Đại thừa (sa. mahāyāna) và được truyền qua Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ và Nga. Đây là một trong ba bộ phái Phật giáo chính hiện nay, hai bộ phái còn lại là Phát triển (còn gọi là Bắc tông, Đại thừa, Đại chúng) và Nguyên thủy (còn gọi là Nam tông, Tiểu thừa, Thượng tọa). Xuất phát từ Phật giáo Đại thừa, nhưng trường phái này lấy thêm những phương pháp tu học huyền bí, có tính chất mật truyền. Thường các phái này được hướng dẫn bằng một vị Đạo sư, kinh sách của họ trình bày nhiều phép tu luyện được gọi là Đát-đặc-la (sa. tantra). Kim cương thừa hay sử dụng Chân ngôn (sa. mantra) và có ảnh hưởng mạnh nhất tại Tây Tạng. Vì hay sử dụng Chân ngôn, Phật giáo Tây Tạng cũng gọi Kim cương thừa là Chân ngôn thừa (sa. mantrayāna). Giáo pháp của Kim cương thừa mang tính chất Mật giáo, bao gồm các yếu tố của phép Du-già (sa. yoga) và các tôn giáo thiên nhiên của Ấn Độ trộn lẫn với tư tưởng Phật giáo. Quan trọng nhất là ảnh hưởng từ Tây Bắc Ấn Độ với nhiều biểu tượng về Tịnh quang (sa. ābhāsvara, cũng được dịch là Cực quang, ánh sáng rực rỡ) cũng như ảnh hưởng của Bắc Ấn về việc tôn thờ tính dục (https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim_c%C6%B0%C6%A1ng_th%E1%BB%ABa).
[20] Guy J. (1995), “The Avalokiteśvara of Yunnan and some Southeast Asian Connections”, In South East Asia & China: Art Interaction & Commerce, tr. 64-83.
[21] Sigley G. (2013), “The Ancient Tea Horse Road and the Politics of Cultural Heritage in Southwest China: Regional Identity in the Context of a Rising China”, In Cultural Heritage Politics in China (eds. T. Blumenfield and H. Silverman). New York: Springer, 235-247; Schriver S. (2017), Cultural Heritage Preservation in Regional China: Tourism, Culture and Shaxi Model, The University of Western Australia: School of Social Sciences, Asian Studies (Chinese). [PhD Thesis], tr. 43-47; Trần Kỳ Phương, Nguyễn Thị Tú Anh (2019), đã dẫn, tr. 46-51.
[22] Majumdar, R.C. (1985), History and Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Far East, 2nd - 16th Centuries A.D., Book III, The Inscriptions of Champa, Delhi: Gian Publishing House (Reprinted), pp. 74-88.
[1] Finot L., Golubev V. (1925), đã dẫn, pp. 471 - 472.
[2] Tác phẩm này là một tượng Phật bằng đồng, đứng trên tòa sen, cao 0.45m, hai tay đang bắt ấn vô úy (Vitarva - mudra), tóc xoắn thành ba tầng, có mắt thứ ba trên trán (huệ nhãn/urna).
[3] Tác phẩm được làm bằng đồng, thể hiện Quan Thế âm Bồ tát (Avalokitesvara) trong tư thế đứng, ngực nở, eo thon, mang nhiều trang sức ở tai, cổ, bắp tay, cổ tay, cổ chân,… khuôn mặt đầy đặn. Đôi mắt mở, tóc búi cao, đầu đội vương miện, chạm hình tượng Phật A Di Đà ngồi. Tượng có 4 tay, 2 tay sau hơi cong vào, một tay cầm quyển sách, 2 tay trước đưa ra cầm nụ sen và bình nước cam lồ. Kích thước: cao: 0.52m; ngang 0.30m. Tượng Avalokitesvara Đại Hữu đã được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 2599/QĐ-TTg, ngày 30/12/2013 công nhận là Bảo vật Quốc gia (đợt 2) [Trần Thị Diệu Hồng (2014), “Tượng đồng Avalokitesvara Chămpa Đại Hữu là bảo vật quốc gia”, TTKH & CN, Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Bình, tr. 70]. Tác phẩm này không thấy đề cập trong báo cáo của L. Finot và L. Aurousseau.
[4] Tác phẩm này cũng không thấy đề cập trong báo cáo của L. Finot và L. Aurousseau.
[5] EFEO (1918), “Chronique”, BEFEO N010, pp. 61; EFEO (1922), “Chronique”, BEFEO N022, pp. 372 – 375; Boisselier J. (1963), La statuaire du Champa, recherché sur cultes et L’Iconographie, Ecole Francaise D’extreme - orient, Paris, p.136; Finot L., Golubev V. (1925), đã dẫn, pp. 474 - 475.
[6] Boisselier J. (1963), đã dẫn, pp. 136.
[7] Boisselier J. (1963), đã dẫn, pp. 136 - 137.