Tinh thần nhập thế của Phật giáo đời Trần trong công cuộc phát triển đạo pháp và chấn hưng văn hóa dân tộc
Phật Giáo Việt Nam - Dân tộc Việt Nam luôn có niềm tự hào với lịch sử có bề dài mấy nghìn năm văn hiến, nhưng nói đến văn hóa thì bất cứ ai cũng biết và liên tưởng đến văn hóa đời Lý - Trần, đây là hai triều đại huy hoàng của lịch sử Việt Nam độc lập tự do sau 1.000 năm bị giặc phương bắc đô hộ. Điều đáng ghi nhớ là tư tưởng chủ đạo cho nền văn hóa, văn minh thời đại ấy chính là Phật giáo, nổi bật hơn hết trên chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước là công lao to lớn của Phật giáo đời Trần.
Phật giáo đời Trần phát triển rực rỡ là nhờ chính quyền tận lực ủng hộ và gặp hoàn cảnh đất nước đang có chiều hướng thuận lợi. Mặt khác lúc bấy giờ có nhiều nhân tài Phật giáo xuất hiện, biết vận dụng tinh thần độc lập tự cường, thống nhất các hệ phái bằng một tinh thần bao dung, độ lượng. Các bậc cao Tăng và những Phật tử ưu tú còn biết thâu hái những tinh hoa của kinh điển và những kinh nghiệm của lân bang, kết tinh thành một thời kỳ Phật giáo vẻ vang nhất trong lịch sử nước nhà.
Sau chiến thắng 938 ở sông Bạch Đằng và đặc biệt sau khi nhà Lý ra đời nền độc lập nước ta dần dần được củng cố. Đạo Phật ở giai đoạn này cũng khá phát triển và đóng góp một cách tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhưng vào thời điểm này Phật giáo Việt Nam do ảnh hưởng của Phật giáo Ấn độ và Trung Quốc cho nên tư tưởng Phật giáo Việt Nam mới chỉ là thuần túy của Ấn độ hay Trung Quốc hoặc cả hai dung hòa vào nhau tạo ra sự hỗn hợp Phật giáo Ấn - Trung chứ chưa phải là Phật giáo Việt Nam theo đúng nghĩa.
Tình hình này vẫn kéo dài nếu như Trần Nhân Tông không sáng lập ra Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Kể từ đó Phật giáo Việt Nam mới có diện mạo riêng, cái chất Việt Nam được thực hiện trong tư tưởng, trong tổ chức. Giờ đây Phật giáo Việt Nam mà tiêu biểu là Phật giáo thời Trần không còn hoàn toàn là Ấn độ hay Trung Hoa nữa mà là Việt Nam, rất Việt Nam và độc đáo. Phật giáo thời Trần là Phật giáo nhập thế vừa liên hệ mật thiết với chính trị văn hóa và xã hội, vừa hoàn thành tốt đẹp chức năng của mình đối với đạo và chúng sanh. Hai tư tưởng nhập thế và xuất thế không mâu thuẫn với nhau lại còn hỗ trợ cho nhau, sự gắn bó của Phật giáo với dân tộc là một nét đặc sắc của Phật giáo Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử thời đại
Thời đại hào hùng hào khí Đông A
Tinh thần Phật Việt góp phần tạo nên hào khí Đông A và đến lượt hào khí Đông A hỗ trợ cho sự thăng hoa của Phật Việt. Cả hai hòa quyện, cuộn xoắn với nhau không thể tách rời vì mục đích chung: lợi lạc quần sinh, lợi ích dân tộc, lợi ích nhân loại. Cũng nên biết thêm, khi đó ở phía Nam thì quân Nguyên đã tràn qua Trung Quốc, ở hướng Bắc thì đã tràn qua cả một phần nước Nga uy hiếp châu Âu. Nhà Trần chiến thắng đội quân hung hãn, thiện chiến này, làm chúng nhụt nhuệ khí và tan rã dần cũng chính là việc "lợi ích nhân loại".
Còn một điểm quan trọng nữa sẽ cần cho mọi triều đại, mọi thời là tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm gắn liền với tư tưởng "công thành thân thoái" của dân tộc. Trong tâm thức mỗi người dân Việt đều lưu giữ huyền thoại Thánh Gióng đánh xong giặc thì bay về trời. Đến thời Trần tư tưởng ấy lại bừng nở qua sự thăng hoa của các vua Trần. Ngay khi đạt đỉnh cao của sự nghiệp thì lui về nhường bước cho giới trẻ. Tư tưởng này thời nào cũng cần đến, hào khí bao giờ cũng ở những người trẻ.
Thông thường các triều đại lên ngôi nhờ võ nghiệp yên định thiên hạ và sau đó dùng luật để trị dân nhưng nhà Trần lên ngôi bằng chính trị khá ôn hòa và gần như ngay lập tức mở ra thiền phái Trúc Lâm để thu phục nhân tâm. Võ nghiệp nhà Trần chói lọi sử xanh chẳng cần phải chứng minh thì thế giới cũng đã công nhận từ thế kỷ thứ XIII còn thiền phái Trúc Lâm, Phật Trần lấy lợi ích dân tộc làm mục đích ta có thể thấy rõ qua sử gia Ngô Thì Nhậm sống ở thế kỷ thứ XVIII. Trong "Trúc Lâm Tông chỉ nguyên thanh", Ngô Thì Nhậm đã hạ những dòng chữ xác đáng: "Mọi người cứ tưởng Đức Điều Ngự ta lên Yên Tử là để chuyên tâm tu hành, nhưng không biết rằng Ngài lên đó là còn để từ chỗ đắc địa đó xem động tĩnh trong thiên hạ".
Sau 2 lần đại thắng quân Nguyên Mông, Trần Nhân Tông đã lên Yên Tử xuất gia đầu Phật và trở thành Đệ Nhất tổ Thiền Trúc Lâm nhưng sâu xa hơn phải như ý của Ngô Thì Nhậm: Lên Yên Tử để xem động tĩnh trong thiên hạ. Yên Tử là trọng địa quân sự có tầm quan sát mọi động thái của kẻ thù phương Bắc để có kế sách đánh giặc, giữ yên bờ cõi. Như vậy là cả thế quyền lẫn thần quyền vương triều nhà Trần đã gồm đủ. Việc gì cần đến lời nói của vua thì vua nói, việc gì cần đến Phật dạy thì đã có các tổ thiền Trúc Lâm lên tiếng. Hai vế đắp đổi hỗ trợ cho nhau và cùng lo cho vận mệnh của sơn hà xã tắc thì sẽ tạo nên sức mạnh vô song và đó chính là hào khí Đông A chói ngời sử Việt.
Danh nhân Văn hóa thế giới Nguyễn Trãi mang trong mình một nửa dòng máu của vương triều Trần cũng có cái hào khí ấy khi vung bút viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước.
Vốn xưng nên văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương....”[1]
Hào khí Đông A còn thẻ hiện không chỉ ở lĩnh vực chính trị, lịch sử mà cả trên các lĩnh vực văn hoá, học thuật.... Đoạn dụ của Lê Thánh Tông đúng là có hào khí của thời Lê sơ và chắc chắn nó được kế thừa từ hào khí Đông A qua những chi tiết cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư: Vua lập tức dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác". Ở một đoạn khác, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng khẳng khái trả lời: "Nếu bệ hạ muốn hàng thì chém đầu tôi trước". Tại Hội nghị Diên Hồng, Trần Quốc Toản nhỏ tuổi quá không được dự bàn việc nước nhưng dũng khí đánh giặc thì có thừa, được vua ban cho quả cam yên ủi. Mải nghĩ đến việc dựng cờ đại nghĩa đuổi giặc giữ nước nên Trần Quốc Toản đã bóp nát quả cam vua ban cho lúc nào không biết.
Như vậy, có thể hiểu được rằng, hào khí thì thời nào cũng có và nó sẽ xuất hiện khi vận mệnh của dân tộc lâm nguy. Nhưng đọc kỹ thì có thể thấy hào khí của thời Lê sơ nghiêng về phép vua, luật định của vua ban ra nhằm răn dạy quần thần còn hào khí Đông A có tính dân chủ hơn, xuất phát từ ý nguyện toàn dân (Hội nghị Diên Hồng ở Lục Đầu Giang) và ý nguyện của cả văn thần võ tướng trong triều nhất loạt nói lên rất hào sảng. Thô phác hơn, hào sảng hơn và có sức mạnh của nội lực dân tộc hơn rất nhiều.
1.2. Bối cảnh xã hội Phật giáo Lý - Trần gắng liền sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
Phật giáo có mặt ở Việt Nam trong hơn 20 thế kỷ qua đã có một vai trò, một vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc bằng sự nhập thế sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý – Trần Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Lúc bấy giờ, cả nước từ vua, quan đến thứ dân đều theo Phật, đến chùa quy y, giữ giới, tụng kinh, Thiền định nên mới có được một tinh thần an lạc, hòa hợp và thuần từ.
Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý – Trần đã chinh phục trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một cuộc sống hòa hợp, giản dị, nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng. Vì thế cả hai triều đại Lý – Trần đều tồn tại khá lâu, triều Lý hơn 200 năm (1010 – 1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226 – 1400). Như vậy, hai triều đại Lý – Trần tồn tại gần 400 năm. Có thể nói đây là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Các vua thời đại Lý – Trần được thừa hưởng những thành quả tốt đẹp của thế hệ trước, đồng thời biết phát huy những tinh hoa gạn lọc được từ bên ngoài biến thể sao cho phù hợp với quốc dân thủy thổ mà không đánh mất bản sắc dân tộc. Thêm vào đó, họ đã thấm nhuần lời chỉ bảo của Thiền sư Pháp Thuận:
“Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô cư như điện các
Xứ xứ tức đao binh”
Dịch:
Vận nước như giây quấn,
Trời Nam ôm thái bình.
Đạo đức ngự cung điện,
Muôn xứ hết đao binh.[2]
Muốn đất nước thái bình thịnh trị, chính nơi bản thân các vua đã tự trao dồi bằng đạo đức vị tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật. Các vua không ngừng học hỏi, tu tập cho đến khi thấu rõ giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép kín mà phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống đúng. Một đời sống hướng thượng, hướng con người đến chân – thiện – mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời sống thực tại này chứ không phải nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc Việt Nam đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng thuần khiết của bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng. Đây chính là nguyên nhân làm cho triều đại Lý – Trần phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với những chiến công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. … Chính đạo Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một quan niệm, một lối sống tích cực, hữu ích cho con người và cho cuộc sống.
Lật lại trang sử nước nhà, vào năm 938, sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân ta thoát khỏi ách đô hộ hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Giành lại chủ quyền chưa được bao lâu thì trong nước có loạn. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, thống nhất giang sơn thu về một mối, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Tuy tình hình trong nước lúc bấy giờ còn lộn xộn, nhiều người quen thói lúc loạn không tuân theo luật lệ. Vua quan bên trong lo dập tắt các mầm loạn, bên ngoài lo bang giao với nhà Tống thì đâu có thời gian xây dựng đất nước. Luật pháp chưa nghiêm ngặt, hình phạt nặng nề như vạc dầu hay cho hổ báo ăn thịt dành cho những tên gian ác, âm mưu tạo phản, còn đối với người dân thì không bó buộc lắm, thuế má cũng không đóng, việc đi lại dễ dàng khiến người dân cảm thấy thỏa mái.
Quốc Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để giành ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể được”[3]
Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc. Vạn Hạnh Thiền sư vì dân vì nước muốn cứu quốc khỏi lâm nguy nên đã làm một cuộc đảo chính năm 1009 phế Lê lập Lý mở ra một trang sử mới cho triều đại nhà Lý. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta”[4]. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã un đúc nên những ông vua Phật tử thuần thành.
Hơn thế nữa, Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng làm cầu nối cho Phật giáo đời Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để khẳng định quyền tự chủ tự cường của một đất nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình, hạnh phúc của mình; và Phật giáo Lý – Trần đã đáp ứng nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước. Chiến công hiển hách còn ghi lại trong lịch sử. Nếu Lý Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi bình được Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống thì Trần Thái Tông cũng thu phục được đất Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang này dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương.
Hai triều đại Lý – Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập Phật giáo vào giòng sống của đất nước và xã hội Việt Nam. Một sự hội nhập được trải dài trên mọi bình diện của đời sống. Phật giáo thời Lý – Trần đã hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự chủ, có đủ sức mạnh tự thân để đánh đuổi mọi cuộc xâm lăng của ngoại ban.
2. Phật giáo đời Trần với chủ trương nhập thế trong việc xây dựng và phát triển đạo pháp - dân tộc
2.1. Sự hình thành Phật giáo nhất tông
Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã thiết lập được mô hình tổ chức Phật giáo Nhất tông vào đời Trần, tức là “thời đại của một tông phái Phật giáo duy nhất”[5], với tôn chỉ hoạt động là thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động phục vụ cho Đạo pháp - Dân tộc.
Khi nhà Lý không còn thế đứng trên vũ đài chính trị nữa, thì việc vua Trần Thái Tông lên ngôi báu, khai sáng ra triều đại nhà Trần là đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đất nước bấy giờ. Một là thâu giang sơn về một mối, thống nhất từ trong ý chí và hành động. Hai là trên dưới đồng lòng, cùng nhau xây dựng phát triển đất nước thịnh vượng và bảo vệ vững chắc các thành quả đạt được trước bất cứ thế lực nào.
Ngoài việc thực hiện trọn hai mục tiêu đề ra, Trần Thái Tông còn đặt cho mình một nhiệm vụ hết sức trọng đại cần phải được đề cập là ngài chủ trương đặt nền móng thống nhất các thiền phái hiện có như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, tiến đến sát nhập và hình thành dòng thiền Trúc Lâm duy nhất đời Trần.
Hay nói một cách chính xác và cụ thể, người khai sáng ra Thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông làm Đệ Nhất tổ, nhưng người có công đặt nền móng thiết lập cho Thiền phái phát triển và truyền thừa từ mô hình tổ chức cho đến nội dung tu tập hành trì, thể hiện bản sắc dân tộc là Trần Thái Tông. Sự kiện ra đời dòng Thiền này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc là xây dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ không chỉ được xác định trên cương thổ biên giới về địa lý mà còn độc lập tự chủ trên mọi phương diện lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo.
Theo Nguyễn Duy Hinh, mô hình tổ chức Phật giáo Nhất tông này ra đời dựa trên hai tiền đề xã hội và tôn giáo hình thành trong hoàn cảnh lịch sử của nước nhà. Về mặt xã hội, nhà Trần trong buổi đầu mới thành lập, công việc cấp bách thiết thực nhất đặt ra trước mắt các nhà lãnh đạo tối cao là xây dựng một ý thức hệ độc lập thống nhất gồm 4 mục đích chính:
- Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ về ý thức hệ với nước ngoài để thanh toán hoàn toàn mọi cơ sở của nước xâm lược.
- Làm cơ sở tư tưởng để thống nhất ý thức dân tộc về mặt chính trị nhằm củng cố sự thống nhất dân tộc thêm một bước nữa.
- Làm công cụ thống nhất quyền lực vào chính quyền Trung ương, tức quy tụ vào họ Lý, họ Trần.
- Làm phương tiện giải quyết các mâu thuẩn nội bộ dân tộc chủ yếu là giai cấp lãnh đạo và đông đảo quần chúng nhân dân nhằm duy trì một trật tự xã hội và cũng tức là duy trì ngai vàng của dòng họ.
Về mặt tôn giáo, nhà Trần phải lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng cần phải thay đổi nội dung của các Thiền phái để đáp ứng các yêu cầu căn bản như đã nói trên. Vì thế, nhà Trần chủ trương lập ra một Thiền phái có nội dung tư tưởng độc lập, thể hiện đúng tinh thần bản sắc dân tộc hơn, hướng đến các mục tiêu sau:
Tự mình phân biệt với Thiền tông ở Trung Quốc biểu lộ tính độc lập. Thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại quốc của các phái Thiền tông trong nước. Vượt lên trên sự khác biệt của tất cả các tông phái Phật giáo cũng như các tín ngưỡng phi Phật giáo để nhằm thống nhất ý thức hệ. Không chịu trách nhiệm về sự khác biệt và đụng độ đã xảy ra trong lịch sử giữa các phái Thiền tông với nhau cũng như Thiền tông với các tín ngưỡng khác, do đó thu hút các tín ngưỡng khác. Tự khoác cho mình chiếc áo một tôn giáo mới - tuy rằng thực tế chỉ là một phái, với đầy đủ các yếu tố để thu phục quần chúng.[6]
Thực tế, tư tưởng lập Thiền phái Trúc Lâm được manh nha từ khi Phật giáo chủ trương mới, nhập thế, tùy tục, tùy duyên nhưng bất biến để đáp ứng các yêu cầu lịch sử dân tộc đặt ra của một đất nước vừa độc lập và đang thực hiện thống nhất trên mọi phương diện.
Dưới ảnh hưởng và uy tín của nhà vua, vào thế kỷ thứ XIII, ba Thiền phái trên dần dần sát nhập thành Thiền phái Trúc Lâm duy nhất đời Trần. Và như thế mô hình Phật giáo Nhất Tông được thiết kế từ khi Trần Thái Tông lên ngôi, và phải đến thời Trần Nhân Tông thì mới đi vào hoạt động thực tiễn một cách mạnh mẽ.
2.2. Khái niệm nhập thế
Nhập thế, theo cách định nghĩa của “Đại từ điển Tiếng Việt” thì đó là vào gánh vác việc đời, không xa lánh đời. Ví dụ, các nhà nho nhập thế, các nhà sư nhập thế.[7]
Khái niệm nhập thể nhập vào đời sống tâm thức người Việt Nam ngay từ khi đạo Phật du nhập vào. Chính Mâu Tử đã đưa ra khái niệm nhập thế như sau: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì cứu dân, cứu nước, khi ngồi một mình thì tự hoàn chỉnh bản thân”. Do đó, khái niệm nhập thế không chỉ dành riêng cho Nho giáo như một vài ý kiến của các trường phái Nho gia thường nói. Thật ra khái niệm nhập thế đã được đức Phật nói từ lâu: “Này các tỳ kheo vì hạnh phúc, an lạc cho quần sanh, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, hãy đi mỗi người một ngã, đừng đi hai người trên một đường, vì lòng thương tưởng cho đời hãy đem chánh pháp đến gieo rắc khắp nơi”.
Trong các thiền đường Việt Nam khái niệm nhập thế được hiểu: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chúng, chấn nhiếp ma quân, thượng báo tứ ân, bạc tế tam hữu”. (Phàm là người xuất gia, bước đi một bước vượt đến chân trời cao rộng, hình tướng và tâm hồn khác với người thế tục, làm cho dòng thánh hưng long, nhiếp phục ma quân để trên báo đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ cho ba đường)[8]. Đối với tinh thần nhập thế của thời Trần là một Phật giáo nhập thế liên hệ mật thiết với chính trị và văn hóa xã hội. Con người của Phật giáo thời Trần rất thích một phong trào như thế đó và đó là lý do chính khiến thiền dòng thiền Trúc Lâm được thành lập. Truyền thống Phật giáo đến thời Trần đã mang nặng tính cách xã hội và nhập thế cho nên Trần Nhân Tông là một ông vua lúc nào cũng lo cho dân cho nước. Khi đất nước sạch bóng quân thù luôn lo nghĩ về dân, lo đến sự đoàn kết toàn dân, đặc biệt là sự nhất trí về tư tưởng. Chính vì vậy mà ông đã đứng ra thành lập dòng thiền Việt nam Trúc lâm Yên tử. Trần Nhân Tông nói: “Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách bỏ đi bao giờ cũng được”(Việt sử tiêu án). Đó chính là khái niệm nhập thế của Phật giáo nói chung và Phật giáo thời Trần nói riêng.
2.3. Tinh thần Cư Trần Lạc Đạo
Phật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống. Từ đây chúng ta không ngạc nhiên vì khi Trần Nhân Tông xây dựng chủ thuyết Cư Trần Lạc Đạo để làm tôn chỉ hoạt động thiền phái. Thông qua bài Cư Trần Lạc Đạo tư tưởng ở đời mà vui với đạo, càng làm sáng tỏ tinh thần tùy duyên (nhập thế) để con người an trú với Đạo.
“Mình ngồi thành thị nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp an nhàn lặng an nhàn thể tính
Nữa ngày tự tại thân tâm”
Ta hiểu đời là thành thị, đạo là sơn lâm. Tuy vậy, cuộc sống thực tiễn cho thấy một người dù ở thành thị gánh vác bao nhiêu việc đời, xong họ biết xử lý công việc với lòng trong sạch chẳng khác gì ở núi rừng. Người Phật tử Đại Việt thời Trần chỉ tùy duyên, tùy thuận vào mối liên hệ phân công của xã hội theo khả năng của mình mà thể hiện đời sống đạo bằng cách.
“Dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu Viên giác”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hồi thứ II)
Như vậy, sống ở thành thị hay núi rừng không quan trọng mà quan trong nhất là ở giữa cuộc đời trần tục giác ngộ mới đáng thật tự hào. Chính bản thân Trần Nhân Tông là một người tìm thấy giác ngộ ngay những ngày với cương vị nhà lãnh đạo tối cao đang ráo riết chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh (1287) do Phất Tất Liệt tiến hành và nhất là rơi vào thời điểm khi mẹ vua Trần Nhân Tông mất như sử liệu ghi.[9]
Rõ ràng giữa bao nhiêu biến động và phiền lụy của cuộc đời. Con người vẫn có thể chuyển hóa thân tâm “muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính”. Chẳng khác nào Pháp Loa nói trong bài kệ “Thị tịch”, khi con người cắt đức vạn duyên hảo huyền, tức là đoạn tận các nghiệp để chấm dứt hệ lụy:
“Vạn duyên tuyệt đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng ảo giang
Trân trọng như nhân hưu tá văn
Ná biên phong nguyệt cánh hoàn khoan”
(Dịch): Một thân nhàn nhã dứt muôn duyên
Hơn bốn mươi năm những hảo huyền
Nhân bảo các người đừng gạn hỏi
Bên kia trăng gió rộng vô biên.[10]
Phật luôn hóa hiện giữa đời, mỗi người chỉ cần đoạn xa tham, sống đạo đức nhân nghĩa với người khác thì ai cũng là Phật. Đây là giá trị thiết thực mà tư tưởng giác ngộ trong Cư Trần Lạc Đạo đem lại.
“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực đã đồ công”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hồi III)
Lý tưởng giác ngộ và giải thoát dành cho tất cả mọi người, xuất gia cũng như tại gia, sống trong chùa cũng như sống ngoài đời, miễn là con người biết tu tập tâm. Người trần tục tu hành thành công, được giác ngộ giải thoát, thì phúc đức ấy thật quý giá, còn tu trên rừng núi mà vẫn không giác ngộ thì đó là cái họa vô ích mà thôi.
Đó là tư tưởng mọi người đều bình đẳng trước chân lý, trước lý tưởng giải thoát giác ngộ của đạo Phật. Con người vốn là Phật, nhưng lại quên mất gốc của mình là Phật nên đi cầu tìm Phật ở đâu. Đây là quan niệm hướng nội của Phật giáo đời Trần, của Phật giáo đích thực, theo đúng lời dạy của Bổn sư:
“Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy dựa vào chính mình, không dựa vào nơi nào khác. Hãy dựa vào chánh pháp, không dựa vào nơi nào khác …”[11]
Phật giáo Đại Việt với nền Phật giáo thế sự, lấy chủ trương tùy tục để nhập thế. Con người không nhất thiết xuống tóc xuất gia, chỉ cần ngộ cái lý 5 uẩn là không, chân tâm không tướng ... thể nhập đời trong mối tương quan mà có thái độ sống thích hợp, cống hiến cho đời là cho đạo.
“Sạch với lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm.
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân.
Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hồi thứ VI)[12]
Hình tượng này là tiêu biểu cho mẫu người Đại Việt thời đại Đông Á nói chung, chứ không phải riêng gì cho Phật giáo. Những người làm nên sự nghiệp hào hùng của dân tộc ta vào thời này hầu hết là Phật tử.
Với chủ thuyết Cư Trần Lạc Đạo, hướng đến việc xây dựng mẫu người Phật tử nhằm bảo vệ độc lập và chấn hưng đất nước. “Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu”. Việc Trần Nhân Tông đem 10 điều thiện dạy khắp nơi đã phản ánh dùng chánh pháp để an dân với mục đích “Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài, đãi cát kén vàng, còn lại nhiều phen lựa lọc” (Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ VIII). Do đó, Trần Nhân Tông khuyến cáo người dân hãy tin tấn rèn lòng làm Bụt, như là sự thăng tiến đạo đức bằng nhiều phương thức để giác ngộ.
Sống ở đời mà vui với đạo theo vua Trần Nhân Tông là cuộc sống thiền. Đã là thiền thì tùy duyên, tùy căn, tùy thời mà sống với đạo.
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc niên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”
(Dịch): Cư trần vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.[13]
2.4. Hình ảnh con người Đại Việt trong chiến tranh chống sự xâm lược của quân Nguyên Mông.
Xưa nay, các bậc đế vương thâu phục giang sơn bằng con đường gươm đao, chế ngự dân bằng quyền hành, bạo lực. Còn thời Trần thì khác, lên ngôi vua không hề có một giọt máu rơi, quần thần trong triều đình đều nhất trí và cũng không nghe dân tình than oán. Sức mạnh nào đã tạo nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường, có phải chăng chính đức từ, bi, hỷ, xả của nhà Phật đã thấm nhuần từ vua quan cho đến thứ dân. Đường lối lấy đức trị dân của triều Trần đã minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của dân tộc Việt Nam.
Đạo Phật thời Trần là đạo Phật của từ bi và trí tuệ, là hai đức hạnh hàng đầu của Phật giáo. Tinh thần từ bi của Phật giáo thời Trần là đường lối trị nước bằng đức trị còn hạnh trí tuệ là nó không hướng đến giải quyết các vấn đề thuần túy lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng ta có thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ, mà hướng tới giải quyết các vấn đề rất cụ thể, rất bức xúc, có tầm quan trọng đối với đời sống con người và trong công cuộc xây dựng đất nước như cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Để đánh thắng một kẻ thù có sức mạnh về vật chất và quân sự gấp hàng trăm lần chúng ta, dân quân ta dưới sự lãnh đạo của các ông vua Phật tử đã áp dụng những đường lối chiến lược và chiến thuật đầy trí tuệ, cho phép triển khai mọi ưu thế của một cuộc chiến tranh nhân dân, đánh địch ngay trên đất nước của mình.
Tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo thời Trần chính là ở chỗ luôn luôn chủ động gạn lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung, cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Trần trong những thế kỷ đầu xây dựng nền độc lập, tự chủ. Quả thật, Phật giáo thời Trần đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền độc lập quốc gia trong lịch sử nước nhà. Các vua trị vì đã thực sự thấm nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì không sợ gì sẽ bại vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp phần tích cực vào sự tồn tại lâu dài của thời Trần.
Qua những áng thơ văn của các Thiền sư - Vua - quan và những vị uyên thâm Phật pháp. Chúng ta có thể nói rằng :
Đạo Phật hiện hữu trên toàn thể đất nước Việt Nam bằng những chất liệu sống của con người. Giáo lý nhà Phật là những phương pháp chỉ bày cuộc sống, đưa sự sống đến chổ an vui Hạnh phúc. Người con Phật xuất gia hay tại gia đều phải quán triệt nguyên lý "Thực tại Tuệ giác" để hình thành một cuộc sống hoàn thiện nhất. Lịch sử Phật giáo từ thế kỷ 10 đến 14, qua thơ văn Lý Trần đã hiện rõ nét sinh động của nguyên lý "Thực tại Tuệ giác". Tinh thần từ bi của đạo Phật đả phá hủy ranh giới giữa Pháp trị và Đức trị, giữa bản chất và hiện tượng... Các Vua quan thời ấy đã áp dụng Đức trị vào Pháp trị nghĩa là sử dụng tinh thần từ bi trong lãnh vực pháp trị.
Phật giáo thời Lý Trần đã thực sự dẫn nhập nhu nhuyễn hài hoà những lời dạy của Đức Phật, thành những phương pháp và biểu đồ hướng dẫn mọi người mọi tầng lớp thực hiện tâm linh để hiện hành thực tại bằng nguyên lý "Thực tại Tuệ giác" trong cuộc sống bản thân và xã hội.
Đặc biệt đến thời Trần , các vị vua thời Trần đều học giỏi, mà lại rất giỏi về kinh điển nhà Phật. Như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều có căn bản vững vàng về Phật học. Họ hết sức ủng hộ Phật Giáo, vì nhận rõ rằng chỉ có giáo lý nhà Phật mới có thể làm cho dân giàu nước mạnh, chỉ có giáo lý nhà Phật mới đem lại cho muôn người an bình hạnh phúc.
Phật Giáo đời Trần hưng thịnh cực độ. Đất nước đời Trần thật sự độc lập, tự do. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã quét sạch những mầm mống tiêu cực. Hội nghị Diên Hồng do Tần Nhân Tông triệu tập đã nói lên được sự đồng tâm nhất trí giữa Nhà nước và Nhân dân. "Đánh - Hy sinh" đó là quyết nghị đồng thanh của Hội nghị Diên Hồng là tiếng nói ý thức của tự chủ, tự cường của dân tộc dưới sự thống nhất Phật Giáo thời đó.
Trần Thái Tông học Phật. Tu và hành theo Phật đã tạo ra một không khí học Phật trong giới trẻ ở triều đình và giới trí thức tại Thủ đô Thăng Long. Trần Thánh Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ là lớp người tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp học Phật ấy. Sự học Phật ở đây không phải để thi cử và địa vị mà chỉ để sống đúng nghĩa con người. Trần Thái Tông đã nói: “Nhà chính trị phải thực hiện Phật giáo trong xã hội”.
Lối sống của Tuệ Trung Thượng sĩ là "Lối sống trong vòng thế tục, hoà ánh sáng của mình vào cuộc đời bụi bặm"[14]
Nhớ ánh sáng từ bi của đạo Phật mà dân chúng đã sống một đời sống an vui hạnh phúc. Chính vì thế mà họ có tinh thần đoàn kết cao biết tự lực, tự cường và kiên quyết không khuất phục trước một đoàn quân xâm lược nào dẫm chân trên đất nước ta cả.
2.5. Hình ảnh con người Đại Việt trong thời bình xây dựng đất nước
Phật giáo Việt Nam vốn có truyền thống gắn bó giữa đạo và đời, tham gia tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc. Khi đất nước giành được độc lập tự chủ, chính quyền phong kiến muốn nắm được lực lượng quần chúng là phải dựa vào nhà chùa để xây dựng và phát triển đất nước. Vì nhà chùa bấy giờ có sức tự lực rất mạnh, tinh thần hòa hợp đoàn kết rất cao được mọi người coi trọng. Các Thiền sư giúp vua xây dựng đất nước như Ngô Chân Lưu được vua Đinh ban hiệu Khuông Việt Đại sư. Theo Thiền Uyển Tập Anh thì bấy giờ “phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều tham dự”.[15]
Hình ảnh nhà sư tham gia chính trị giữ gìn đất nước đã nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với quốc gia dân tộc. Nhà sư nhập thế giúp đời là một hình ảnh đẹp, chứng tỏ bấy giờ đạo gắn liền với đời và Phật pháp với dân tộc, với đất nước không thể phân ly. Thời Trần, có rất nhiều nhà sư đã có những hành động cao cả, xả thân vì đất nước như thế.
Lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng đối với vua Trần Thái Tông, khi vua bỏ ngôi lên núi cầu làm Phật mà nhà vua đã ghi trong bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam như sau: “Phàm vi nhân quân giả dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm. Kim thiên hạ dục nghinh bệ hạ quy chi, tắc bệ hạ an đắc bất quy tai. Nhiên nội điển chi tham, nguyện bệ hạ mỗi vong tư tu văn”. (Phàm người làm vua lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình. Nay bề tôi muốn rước bệ hạ về thì bệ hạ sao có thể không về được? Song nghiên cứu Phật điển, xin bệ hạ chớ quên điều đó)[16]. Lời khuyên ấy thể hiện ý nghĩa nhập thế tích cực của Phật giáo thời Trần, phần nào bộc lộ lòng yêu nước, thương dân. Vâng lời chỉ dạy của Quốc sư, vua đã trở về với ngôi vị, nhà vua từ giã Yên Tử, từ giã Quốc sư tức từ giã đạo để về với đời để hành đạo. Qua mấy mươi năm, vua đã lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và đã “lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên hạ”(Tựu nhược dĩ thân vi thiên hạ chi tiên dã)[17]. Đó là tinh thần quên mình vì người, là tinh thần vô ngã vị tha của Phật giáo đã được các ông vua thời Trần vận dụng để đưa nước nhà đến chỗ phồn vinh.
3. Thành tựu đạt được của Phật giáo thời Trần
3.1. Văn hóa, giáo dục
Văn hoá thời Trần là một nền văn hoá độc lập mà đạo Phật giữ vai trò "cốt tuỷ". Khi các Nho thần Cao Bá Quát, Phạm Sư Mạnh yêu cầu vua Minh Tông nên thay đổi sinh hoạt văn hoá theo nhà Tống Trung Hoa. Minh Tông đã trả lời "Nước ta có nền văn hoá riêng và lại phong tục mỗi nơi mỗi khác. Nếu theo lời các ông mà thay đổi thì sẽ sanh đại loạn ngay".
Về văn hóa, Việt Nam thuộc bán đảo đông Dương gần hai quốc gia khổng lồ không chỉ về lãnh thổ mà cả về văn hóa là Trung Quốc và Ấn độ. Bởi vậy văn hóa Việt Nam có nhiều ảnh hưởng và mang tính chất có hai nền văn hóa Ấn – Trung, chi phối mãnh liệt nhất lúc này là Phật giáo. Thời Đinh, Lê, Lý, Trần Phật giáo hầu như là quốc giáo, bên cạnh đó còn có Nho giáo và Lão giáo, đã bước lên diễn đàn chính trị nhưng chưa phát triển mạnh.
Nói về văn hóa thời Trần, chúng ta không thể bỏ qua một điểm khá đặc biệt, đó là sự xuất hiện chữ Quốc ngữ (chữ Nôm), bắt đầu từ Hàn Thuyên 1282. Đây là cuộc cách mạng thật sự trong văn hóa và ngôn ngữ nói riêng. Về mặt tông phái, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, Thiền phái này thoát thai từ dòng Vô Ngôn Thông, bởi vậy nó mang đặc điểm của dòng thiền này là kết hợp thiền với đạo. Như vậy, trụ cột của văn hóa thời Trần là Phật giáo lấy nền tảng tư tưởng của nó là Thiền tông.
Phật giáo Thiền Tông Việt Nam thời Trần trong quan hệ với văn hóa văn nghệ dân gian. Lật lại từng trang sử đạo Phật đã làm rạng danh cho lịch sử nước nhà mà đặc biệt là thời Trần. Phật giáo Thiền Tông thời Trần không chỉ được truyền bá rộng rãi mà còn gây ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn xã hội, đồng thời để lại dấu ấn rất rõ ràng trong đời sống văn hóa Việt Nam.
Qua sử sách, chúng ta được biết, từ xưa chùa chiền không chỉ là nơi diễn ra nghi thức tôn giáo mà còn là nơi bảo lưu văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc với nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian. Các công trình kiến trúc nổi tiếng trong mấy thế kỷ đầu kỷ nguyên tự chủ, tiêu biểu cho nền nghệ thuật thời đại và trở thành những danh thắng, hầu hết đều là chùa chiền. Ở đây, giữa Phật giáo với văn hóa dân gian có mối quan hệ giao lưu gắn bó với nhau.
Truyền thuyết về Man Nương, về Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không trong Lĩnh Nam Chích Quái, truyền thuyết về thần Phù Đổng ở Việt Điện U Linh đều cho thấy rõ sự thâm nhập lẫn nhau giữa Phật giáo và những tín ngưỡng cũng như văn hóa dân gian. Hệ thống Phật Tứ pháp trong truyện Man Nương được nhân dân vùng lúa nước xem như là vị phúc thần để giúp dân được mưa thuận gió hòa, mùa màng phong túc. Ngày hội tắm Phật mùng bốn tháng tư âm lịch hàng năm trong truyện Man Nương cũng chính là ngày nam nữ bốn phương tụ hội về chùa để vui chơi ca múa. Chính sử thời phong kiến như Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Văn bia tháp sùng Thiện Diên Linh do Nguyễn Công Bật viết năm 1121 đều cho biết vua Lý Nhân Tông hàng năm vào mùa xuân đến chùa để cầu phúc và tắm Phật. Trong các lễ lớn được tổ chức tại chùa đều có vua ngự đến, ca hát vui chơi, có cả sư tăng và Phật tử tham gia. Qua đó cho thấy nhà chùa và các lễ hội Phật giáo có liên quan mật thiết với nhau.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần chưa có một loại nhạc cung đình riêng biệt với tính chất trang trọng. Mỗi khi có yến tiệc, ăn uống xong, vua quan thường hát múa theo các điệu dân gian: đứng thành vòng tròn, tay người nọ đặt lên vai người kia, chân người nọ dẫm lên chân người kia. …[18]. Có được tinh thần phóng khoáng và cởi mở trên có lẽ là nhờ sự kết hợp giữa tính dân chủ của dân tộc và tinh thần bình đẳng, phá chấp của Phật giáo.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa Phật giáo Thiền Tông với văn hóa dân gian còn thấy được qua nhiều mặt sinh hoạt trong cuộc sống từ việc chữa bệnh, trừ tà, cầu mưa, cầu gió, cầu an đến những chuyện lớn lao như cầu giúp sức đánh thắng giặc ngoại xâm…. Phật đã thành Bụt trong truyện cổ dân gian tuy ở cõi khác nhưng không cao xa mà rất gần gũi với đời sống con người, luôn ứng hiện để đáp ứng lời cầu cứu và nỗi đau khổ của con người. Trên lý thuyết dường như giữa Phật giáo dân gian và Phật giáo Thiền Tông không có nét chung nào. Nhưng trên thực tế thì những Thiền sư nổi tiếng, có phép thần thông, có thể đi mây về gió cũng là những người xuất phát từ quần chúng và được quần chúng tin cẩn tín nhiệm. Những Thiền sư nổi tiếng này đồng thời cũng là những người có cung cách sống giản dị, lời kệ, lời giảng pháp của họ có khi uẩn súc, nhưng có khi cũng rất mộc mạc tùy đối tượng đến tham vấn. Chính cái tâm hồn nhiên, cởi mở, bình đẳng, vị tha của các Thiền sư đã làm cho Phật giáo Việt Nam mang màu sắc chung là dung dị, đại chúng.
Về giáo dục và thi cử, để đáp ứng nhu cầu phát triển của bộ máy nhà nước, triều Trần đã không ngừng mở rộng hệ thống giáo dục và thi cử. Cũng dưới triều Trần, hệ thống giáo dục võ nghiệp phát triển khá mạnh mẽ, bên cạnh hàng loạt những trường dạy võ tức giảng võ đường. Lúc này, triều đình cũng đã tổ chức các khoa thi võ, nhưng bằng cấp vẫn chưa được rõ rệt như các triều đại sau này. Trong một số trường hợp đặt biệt, triều Trần còn tổ chức khoa thi để chọn nhân tài phù hợp với công việc nhà nước cần. Ví dụ khoa thi Tam giáo: chọn cả những người thông hiểu cả Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Khoa thi văn nghệ: chọn những người có khả năng đặc biệt về một việc nào đó (viết chữ, trang trí…) để bổ dụng vào cơ quan nào nếu xét thấy cần.
Nền giáo dục của Phật giáo nhằm phát triển tâm thức đưa đến cho con người một trí tuệ minh triết siêu phàm, phi đấu tranh, an tịnh giải thoát. Đức Phật với tâm thuần tịnh, toàn tri, toàn giác. Ngài thấy trong nước có vô số vi trùng, thấy trong vũ trụ có hằng hà sa số hành tinh. Ngài thấy chúng sanh sau khi chết, bị dẫn đi luân hồi trong sáu đường, rõ ràng giống như người đứng trên lầu cao thấy rõ mọi người qua lại ở ngã tư đường. Đời Trần là một trong những điểm son nổi bật nhất trong suốt quá trình giữ nước trong lịch sử Đại Việt. Trong đó Phật giáo đã tích cực góp phần tạo dựng cho xã hội đời Trần thành tựu rực rỡ. Một xã hội được giáo dục bằng giáo lý Ngũ giới và Thập thiện, mà các vua Trần xem đó là khuôn mẫu, là một chuẩn mực sống cho toàn dân. Điều này đã được chứng minh rất rõ ràng qua phần lịch sử. Phật giáo đời Trần đã góp phần xây dựng cải tạo gia đình và xã hội, đem lại an vui hạnh phúc cho mọi người, hướng đến đời sống chân, thiện, mỹ.
3.2. Kinh tế, chính trị
Thực chất chế độ kinh tế thời Trần không có gì khác nhau về căn bản bởi lẽ đất đai chủ yếu vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Tuy nhiên trong quy mô cũng như mức độ nhà Trần cho phép bán ruộng công thành ruộng tư, điều đó kích thích tầng lớp quý tộc đẩy mạnh khai khẩn đất hoang. Bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp thì thủ công nghiệp, giao thông buôn bán cũng có những biến chuyển đáng khích lệ. Cùng với sự phát triển của triều đại nhà Trần, giai cấp quý tộc đã có sự phân hóa, một bên là tôn thất nhà vua có thế lực, có sản nghiệp có khuynh hướng ủng hộ Phật giáo, một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí tuệ và đề cao nho giáo.
Về chính trị, sự biến cung đình tháng giêng năm 1226, đưa Trần Cảnh lên ngôi vua, không những kết thúc triều đại Lý mà còn kết thúc cả một thời kỳ nhiễu nhương rối loạn do cuộc hỗn chiến giữa các thế lực ở trung ương và địa phương gây ra. Các vua Trần đều ra sức tìm đủ mọi biện pháp để chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước. Đã cho ra đời nhiều bộ luật mới, đặc biệt là sự ra đời của bộ luật “Hình thư”, thừa nhận sự tồn tại của chế độ nô tỳ trong xã hội thời bấy giờ.
Qua sự phân tích trên, tinh thần nhập thế của Phật giáo đời Trần trong công cuộc phát triển đạo pháp và chấn hưng văn hóa dân tộc rất rõ ràng. Dân tộc Việt Nam đã tìm thấy được ở Phật giáo một hệ tư tưởng mới, tiến bộ có thể dùng để đối trị tư tưởng Khổng giáo vốn là chỗ dựa tinh thần của nền đô hộ Trung Hoa đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo luôn luôn thể hiện tinh thần bao dung, hòa bình. Điều này đã giải thích vì sao có sự hình thành quan điểm “Tam giáo đồng nguyên”. Không dừng lại ở đó, việc khai sáng triều đại độc lập, tự chủ đời Trần đã đánh dấu một bước hội nhập sâu rộng hơn của Phật giáo và văn hóa xã hội Việt Nam, với tinh thần bình đẳng tuyệt đối, đạo Phật đã tạo cơ sở cho sự đoàn kết toàn dân ngay những buổi đầu dựng nước. Thừa kế tư tưởng Phật giáo đời Trần là vấn đề nhập thế sinh động của mỗi người con Phật, trước hết là về mặt trí tuệ và tư tưởng vị tha, trong sạch mới có tri kiến chơn chánh, thực hành đúng giáo lý, tích cực hoạt động để tạo an lành hạnh phúc cho kẻ khác. Ngày nay nền văn minh của nhân loại càng đi lên, thì con người càng vật lộn sinh tồn với sự sống, chỉ có trí tuệ Phật giáo mới đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người mà thiết thực hơn hết là trách nhiệm ở mỗi Tăng Ni. Đó là sự gắn liền với đời sống trong tất cả mọi mặt, để hoàn thành sứ mạng “tác Như Lai sứ” và không tách rời lý tưởng giải thoát.
Viên Hải Mặc Nhân
--------------------------------------------------------------------
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Ngữ Văn 10 (2003), Tập Hai. Bộ 1. Nxb: Giáo dục, Nxb: Hà Nội
2. Thơ Văn Lý - Trần (1997), Tập I - II, Viện Văn học, KHXH, Nxb: Hà Nội
3. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1998), Bản Kỷ, Viện KHXHNV, Nxb: Khoa học xã hội, Hà Nội
4. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt(1997), Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành
5. Minh Chi (2000), Truyền Thống Văn Hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb: Tôn giáo
6. Nguyễn Lang (1974), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Nxb: Lá bối, Sài Gòn,
7. Nhiều tác giả (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb: Hà Nội
8. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb: Văn Hóa Thông Tin
9. Thích Hành Trụ (1970), Quy Sơn Cảnh Sách, Nxb: Sen Vàng
12. Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường bộ I, Đại Tạng kinh Việt Nam
13. Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích) (1990), Thiền Uyển Tập Anh, Phân Viện NCPH, Nxb: Văn học, Hà Nội
14. Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục, Phụ lục: Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục; Đào Duy Anh (dịch) (1974), Nxb: KHXH, Hà Nội
15. Đinh Gia Khánh (1960), Lời giới thiệu “Lĩnh Nam Chích Quái”, Nxb Văn Hóa, Hà Nội
16. Thích Mật Thể (1993), Việt Nam Phật giáo sử lược
17. Thích Đức Nhuận (1996), Đạo Phật và dòng sử Việt , NXB: Viện triết lý Việt Nam và triết học thế giới Colifornia USA.
Sau chiến thắng 938 ở sông Bạch Đằng và đặc biệt sau khi nhà Lý ra đời nền độc lập nước ta dần dần được củng cố. Đạo Phật ở giai đoạn này cũng khá phát triển và đóng góp một cách tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhưng vào thời điểm này Phật giáo Việt Nam do ảnh hưởng của Phật giáo Ấn độ và Trung Quốc cho nên tư tưởng Phật giáo Việt Nam mới chỉ là thuần túy của Ấn độ hay Trung Quốc hoặc cả hai dung hòa vào nhau tạo ra sự hỗn hợp Phật giáo Ấn - Trung chứ chưa phải là Phật giáo Việt Nam theo đúng nghĩa.
Tình hình này vẫn kéo dài nếu như Trần Nhân Tông không sáng lập ra Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Kể từ đó Phật giáo Việt Nam mới có diện mạo riêng, cái chất Việt Nam được thực hiện trong tư tưởng, trong tổ chức. Giờ đây Phật giáo Việt Nam mà tiêu biểu là Phật giáo thời Trần không còn hoàn toàn là Ấn độ hay Trung Hoa nữa mà là Việt Nam, rất Việt Nam và độc đáo. Phật giáo thời Trần là Phật giáo nhập thế vừa liên hệ mật thiết với chính trị văn hóa và xã hội, vừa hoàn thành tốt đẹp chức năng của mình đối với đạo và chúng sanh. Hai tư tưởng nhập thế và xuất thế không mâu thuẫn với nhau lại còn hỗ trợ cho nhau, sự gắn bó của Phật giáo với dân tộc là một nét đặc sắc của Phật giáo Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử thời đại
Thời đại hào hùng hào khí Đông A
Còn một điểm quan trọng nữa sẽ cần cho mọi triều đại, mọi thời là tư tưởng của thiền phái Trúc Lâm gắn liền với tư tưởng "công thành thân thoái" của dân tộc. Trong tâm thức mỗi người dân Việt đều lưu giữ huyền thoại Thánh Gióng đánh xong giặc thì bay về trời. Đến thời Trần tư tưởng ấy lại bừng nở qua sự thăng hoa của các vua Trần. Ngay khi đạt đỉnh cao của sự nghiệp thì lui về nhường bước cho giới trẻ. Tư tưởng này thời nào cũng cần đến, hào khí bao giờ cũng ở những người trẻ.
Thông thường các triều đại lên ngôi nhờ võ nghiệp yên định thiên hạ và sau đó dùng luật để trị dân nhưng nhà Trần lên ngôi bằng chính trị khá ôn hòa và gần như ngay lập tức mở ra thiền phái Trúc Lâm để thu phục nhân tâm. Võ nghiệp nhà Trần chói lọi sử xanh chẳng cần phải chứng minh thì thế giới cũng đã công nhận từ thế kỷ thứ XIII còn thiền phái Trúc Lâm, Phật Trần lấy lợi ích dân tộc làm mục đích ta có thể thấy rõ qua sử gia Ngô Thì Nhậm sống ở thế kỷ thứ XVIII. Trong "Trúc Lâm Tông chỉ nguyên thanh", Ngô Thì Nhậm đã hạ những dòng chữ xác đáng: "Mọi người cứ tưởng Đức Điều Ngự ta lên Yên Tử là để chuyên tâm tu hành, nhưng không biết rằng Ngài lên đó là còn để từ chỗ đắc địa đó xem động tĩnh trong thiên hạ".
Sau 2 lần đại thắng quân Nguyên Mông, Trần Nhân Tông đã lên Yên Tử xuất gia đầu Phật và trở thành Đệ Nhất tổ Thiền Trúc Lâm nhưng sâu xa hơn phải như ý của Ngô Thì Nhậm: Lên Yên Tử để xem động tĩnh trong thiên hạ. Yên Tử là trọng địa quân sự có tầm quan sát mọi động thái của kẻ thù phương Bắc để có kế sách đánh giặc, giữ yên bờ cõi. Như vậy là cả thế quyền lẫn thần quyền vương triều nhà Trần đã gồm đủ. Việc gì cần đến lời nói của vua thì vua nói, việc gì cần đến Phật dạy thì đã có các tổ thiền Trúc Lâm lên tiếng. Hai vế đắp đổi hỗ trợ cho nhau và cùng lo cho vận mệnh của sơn hà xã tắc thì sẽ tạo nên sức mạnh vô song và đó chính là hào khí Đông A chói ngời sử Việt.
Danh nhân Văn hóa thế giới Nguyễn Trãi mang trong mình một nửa dòng máu của vương triều Trần cũng có cái hào khí ấy khi vung bút viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước.
Vốn xưng nên văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương....”[1]
Hào khí Đông A còn thẻ hiện không chỉ ở lĩnh vực chính trị, lịch sử mà cả trên các lĩnh vực văn hoá, học thuật.... Đoạn dụ của Lê Thánh Tông đúng là có hào khí của thời Lê sơ và chắc chắn nó được kế thừa từ hào khí Đông A qua những chi tiết cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư: Vua lập tức dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ trả lời: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác". Ở một đoạn khác, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng khẳng khái trả lời: "Nếu bệ hạ muốn hàng thì chém đầu tôi trước". Tại Hội nghị Diên Hồng, Trần Quốc Toản nhỏ tuổi quá không được dự bàn việc nước nhưng dũng khí đánh giặc thì có thừa, được vua ban cho quả cam yên ủi. Mải nghĩ đến việc dựng cờ đại nghĩa đuổi giặc giữ nước nên Trần Quốc Toản đã bóp nát quả cam vua ban cho lúc nào không biết.
Như vậy, có thể hiểu được rằng, hào khí thì thời nào cũng có và nó sẽ xuất hiện khi vận mệnh của dân tộc lâm nguy. Nhưng đọc kỹ thì có thể thấy hào khí của thời Lê sơ nghiêng về phép vua, luật định của vua ban ra nhằm răn dạy quần thần còn hào khí Đông A có tính dân chủ hơn, xuất phát từ ý nguyện toàn dân (Hội nghị Diên Hồng ở Lục Đầu Giang) và ý nguyện của cả văn thần võ tướng trong triều nhất loạt nói lên rất hào sảng. Thô phác hơn, hào sảng hơn và có sức mạnh của nội lực dân tộc hơn rất nhiều.
1.2. Bối cảnh xã hội Phật giáo Lý - Trần gắng liền sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
Phật giáo có mặt ở Việt Nam trong hơn 20 thế kỷ qua đã có một vai trò, một vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc bằng sự nhập thế sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý – Trần Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Lúc bấy giờ, cả nước từ vua, quan đến thứ dân đều theo Phật, đến chùa quy y, giữ giới, tụng kinh, Thiền định nên mới có được một tinh thần an lạc, hòa hợp và thuần từ.
Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý – Trần đã chinh phục trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một cuộc sống hòa hợp, giản dị, nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng. Vì thế cả hai triều đại Lý – Trần đều tồn tại khá lâu, triều Lý hơn 200 năm (1010 – 1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226 – 1400). Như vậy, hai triều đại Lý – Trần tồn tại gần 400 năm. Có thể nói đây là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Các vua thời đại Lý – Trần được thừa hưởng những thành quả tốt đẹp của thế hệ trước, đồng thời biết phát huy những tinh hoa gạn lọc được từ bên ngoài biến thể sao cho phù hợp với quốc dân thủy thổ mà không đánh mất bản sắc dân tộc. Thêm vào đó, họ đã thấm nhuần lời chỉ bảo của Thiền sư Pháp Thuận:
“Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô cư như điện các
Xứ xứ tức đao binh”
Dịch:
Vận nước như giây quấn,
Trời Nam ôm thái bình.
Đạo đức ngự cung điện,
Muôn xứ hết đao binh.[2]
Muốn đất nước thái bình thịnh trị, chính nơi bản thân các vua đã tự trao dồi bằng đạo đức vị tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật. Các vua không ngừng học hỏi, tu tập cho đến khi thấu rõ giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép kín mà phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống đúng. Một đời sống hướng thượng, hướng con người đến chân – thiện – mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời sống thực tại này chứ không phải nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc Việt Nam đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng thuần khiết của bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng. Đây chính là nguyên nhân làm cho triều đại Lý – Trần phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với những chiến công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. … Chính đạo Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một quan niệm, một lối sống tích cực, hữu ích cho con người và cho cuộc sống.
Lật lại trang sử nước nhà, vào năm 938, sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân ta thoát khỏi ách đô hộ hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Giành lại chủ quyền chưa được bao lâu thì trong nước có loạn. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, thống nhất giang sơn thu về một mối, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Tuy tình hình trong nước lúc bấy giờ còn lộn xộn, nhiều người quen thói lúc loạn không tuân theo luật lệ. Vua quan bên trong lo dập tắt các mầm loạn, bên ngoài lo bang giao với nhà Tống thì đâu có thời gian xây dựng đất nước. Luật pháp chưa nghiêm ngặt, hình phạt nặng nề như vạc dầu hay cho hổ báo ăn thịt dành cho những tên gian ác, âm mưu tạo phản, còn đối với người dân thì không bó buộc lắm, thuế má cũng không đóng, việc đi lại dễ dàng khiến người dân cảm thấy thỏa mái.
Quốc Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để giành ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể được”[3]
Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc. Vạn Hạnh Thiền sư vì dân vì nước muốn cứu quốc khỏi lâm nguy nên đã làm một cuộc đảo chính năm 1009 phế Lê lập Lý mở ra một trang sử mới cho triều đại nhà Lý. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta”[4]. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã un đúc nên những ông vua Phật tử thuần thành.
Hơn thế nữa, Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng làm cầu nối cho Phật giáo đời Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để khẳng định quyền tự chủ tự cường của một đất nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình, hạnh phúc của mình; và Phật giáo Lý – Trần đã đáp ứng nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước. Chiến công hiển hách còn ghi lại trong lịch sử. Nếu Lý Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi bình được Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống thì Trần Thái Tông cũng thu phục được đất Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang này dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương.
Hai triều đại Lý – Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập Phật giáo vào giòng sống của đất nước và xã hội Việt Nam. Một sự hội nhập được trải dài trên mọi bình diện của đời sống. Phật giáo thời Lý – Trần đã hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự chủ, có đủ sức mạnh tự thân để đánh đuổi mọi cuộc xâm lăng của ngoại ban.
2. Phật giáo đời Trần với chủ trương nhập thế trong việc xây dựng và phát triển đạo pháp - dân tộc
2.1. Sự hình thành Phật giáo nhất tông
Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã thiết lập được mô hình tổ chức Phật giáo Nhất tông vào đời Trần, tức là “thời đại của một tông phái Phật giáo duy nhất”[5], với tôn chỉ hoạt động là thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động phục vụ cho Đạo pháp - Dân tộc.
Khi nhà Lý không còn thế đứng trên vũ đài chính trị nữa, thì việc vua Trần Thái Tông lên ngôi báu, khai sáng ra triều đại nhà Trần là đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đất nước bấy giờ. Một là thâu giang sơn về một mối, thống nhất từ trong ý chí và hành động. Hai là trên dưới đồng lòng, cùng nhau xây dựng phát triển đất nước thịnh vượng và bảo vệ vững chắc các thành quả đạt được trước bất cứ thế lực nào.
Ngoài việc thực hiện trọn hai mục tiêu đề ra, Trần Thái Tông còn đặt cho mình một nhiệm vụ hết sức trọng đại cần phải được đề cập là ngài chủ trương đặt nền móng thống nhất các thiền phái hiện có như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, tiến đến sát nhập và hình thành dòng thiền Trúc Lâm duy nhất đời Trần.
Hay nói một cách chính xác và cụ thể, người khai sáng ra Thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông làm Đệ Nhất tổ, nhưng người có công đặt nền móng thiết lập cho Thiền phái phát triển và truyền thừa từ mô hình tổ chức cho đến nội dung tu tập hành trì, thể hiện bản sắc dân tộc là Trần Thái Tông. Sự kiện ra đời dòng Thiền này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc là xây dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ không chỉ được xác định trên cương thổ biên giới về địa lý mà còn độc lập tự chủ trên mọi phương diện lĩnh vực chính trị kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo.
Theo Nguyễn Duy Hinh, mô hình tổ chức Phật giáo Nhất tông này ra đời dựa trên hai tiền đề xã hội và tôn giáo hình thành trong hoàn cảnh lịch sử của nước nhà. Về mặt xã hội, nhà Trần trong buổi đầu mới thành lập, công việc cấp bách thiết thực nhất đặt ra trước mắt các nhà lãnh đạo tối cao là xây dựng một ý thức hệ độc lập thống nhất gồm 4 mục đích chính:
- Thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ về ý thức hệ với nước ngoài để thanh toán hoàn toàn mọi cơ sở của nước xâm lược.
- Làm cơ sở tư tưởng để thống nhất ý thức dân tộc về mặt chính trị nhằm củng cố sự thống nhất dân tộc thêm một bước nữa.
- Làm công cụ thống nhất quyền lực vào chính quyền Trung ương, tức quy tụ vào họ Lý, họ Trần.
- Làm phương tiện giải quyết các mâu thuẩn nội bộ dân tộc chủ yếu là giai cấp lãnh đạo và đông đảo quần chúng nhân dân nhằm duy trì một trật tự xã hội và cũng tức là duy trì ngai vàng của dòng họ.
Về mặt tôn giáo, nhà Trần phải lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu, nhưng cần phải thay đổi nội dung của các Thiền phái để đáp ứng các yêu cầu căn bản như đã nói trên. Vì thế, nhà Trần chủ trương lập ra một Thiền phái có nội dung tư tưởng độc lập, thể hiện đúng tinh thần bản sắc dân tộc hơn, hướng đến các mục tiêu sau:
Tự mình phân biệt với Thiền tông ở Trung Quốc biểu lộ tính độc lập. Thay đổi một phần nội dung tiêu cực và thân ngoại quốc của các phái Thiền tông trong nước. Vượt lên trên sự khác biệt của tất cả các tông phái Phật giáo cũng như các tín ngưỡng phi Phật giáo để nhằm thống nhất ý thức hệ. Không chịu trách nhiệm về sự khác biệt và đụng độ đã xảy ra trong lịch sử giữa các phái Thiền tông với nhau cũng như Thiền tông với các tín ngưỡng khác, do đó thu hút các tín ngưỡng khác. Tự khoác cho mình chiếc áo một tôn giáo mới - tuy rằng thực tế chỉ là một phái, với đầy đủ các yếu tố để thu phục quần chúng.[6]
Thực tế, tư tưởng lập Thiền phái Trúc Lâm được manh nha từ khi Phật giáo chủ trương mới, nhập thế, tùy tục, tùy duyên nhưng bất biến để đáp ứng các yêu cầu lịch sử dân tộc đặt ra của một đất nước vừa độc lập và đang thực hiện thống nhất trên mọi phương diện.
Dưới ảnh hưởng và uy tín của nhà vua, vào thế kỷ thứ XIII, ba Thiền phái trên dần dần sát nhập thành Thiền phái Trúc Lâm duy nhất đời Trần. Và như thế mô hình Phật giáo Nhất Tông được thiết kế từ khi Trần Thái Tông lên ngôi, và phải đến thời Trần Nhân Tông thì mới đi vào hoạt động thực tiễn một cách mạnh mẽ.
2.2. Khái niệm nhập thế
Nhập thế, theo cách định nghĩa của “Đại từ điển Tiếng Việt” thì đó là vào gánh vác việc đời, không xa lánh đời. Ví dụ, các nhà nho nhập thế, các nhà sư nhập thế.[7]
Khái niệm nhập thể nhập vào đời sống tâm thức người Việt Nam ngay từ khi đạo Phật du nhập vào. Chính Mâu Tử đã đưa ra khái niệm nhập thế như sau: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì cứu dân, cứu nước, khi ngồi một mình thì tự hoàn chỉnh bản thân”. Do đó, khái niệm nhập thế không chỉ dành riêng cho Nho giáo như một vài ý kiến của các trường phái Nho gia thường nói. Thật ra khái niệm nhập thế đã được đức Phật nói từ lâu: “Này các tỳ kheo vì hạnh phúc, an lạc cho quần sanh, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, hãy đi mỗi người một ngã, đừng đi hai người trên một đường, vì lòng thương tưởng cho đời hãy đem chánh pháp đến gieo rắc khắp nơi”.
Trong các thiền đường Việt Nam khái niệm nhập thế được hiểu: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chúng, chấn nhiếp ma quân, thượng báo tứ ân, bạc tế tam hữu”. (Phàm là người xuất gia, bước đi một bước vượt đến chân trời cao rộng, hình tướng và tâm hồn khác với người thế tục, làm cho dòng thánh hưng long, nhiếp phục ma quân để trên báo đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ cho ba đường)[8]. Đối với tinh thần nhập thế của thời Trần là một Phật giáo nhập thế liên hệ mật thiết với chính trị và văn hóa xã hội. Con người của Phật giáo thời Trần rất thích một phong trào như thế đó và đó là lý do chính khiến thiền dòng thiền Trúc Lâm được thành lập. Truyền thống Phật giáo đến thời Trần đã mang nặng tính cách xã hội và nhập thế cho nên Trần Nhân Tông là một ông vua lúc nào cũng lo cho dân cho nước. Khi đất nước sạch bóng quân thù luôn lo nghĩ về dân, lo đến sự đoàn kết toàn dân, đặc biệt là sự nhất trí về tư tưởng. Chính vì vậy mà ông đã đứng ra thành lập dòng thiền Việt nam Trúc lâm Yên tử. Trần Nhân Tông nói: “Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách bỏ đi bao giờ cũng được”(Việt sử tiêu án). Đó chính là khái niệm nhập thế của Phật giáo nói chung và Phật giáo thời Trần nói riêng.
2.3. Tinh thần Cư Trần Lạc Đạo
Phật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ thành phần nào trong xã hội, Phật giáo chính là quá trình đi tìm chân lý. Chân lý thì không nằm trong Phật giáo mà nằm trong cuộc sống. Từ đây chúng ta không ngạc nhiên vì khi Trần Nhân Tông xây dựng chủ thuyết Cư Trần Lạc Đạo để làm tôn chỉ hoạt động thiền phái. Thông qua bài Cư Trần Lạc Đạo tư tưởng ở đời mà vui với đạo, càng làm sáng tỏ tinh thần tùy duyên (nhập thế) để con người an trú với Đạo.
“Mình ngồi thành thị nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp an nhàn lặng an nhàn thể tính
Nữa ngày tự tại thân tâm”
Ta hiểu đời là thành thị, đạo là sơn lâm. Tuy vậy, cuộc sống thực tiễn cho thấy một người dù ở thành thị gánh vác bao nhiêu việc đời, xong họ biết xử lý công việc với lòng trong sạch chẳng khác gì ở núi rừng. Người Phật tử Đại Việt thời Trần chỉ tùy duyên, tùy thuận vào mối liên hệ phân công của xã hội theo khả năng của mình mà thể hiện đời sống đạo bằng cách.
“Dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu Viên giác”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hồi thứ II)
Như vậy, sống ở thành thị hay núi rừng không quan trọng mà quan trong nhất là ở giữa cuộc đời trần tục giác ngộ mới đáng thật tự hào. Chính bản thân Trần Nhân Tông là một người tìm thấy giác ngộ ngay những ngày với cương vị nhà lãnh đạo tối cao đang ráo riết chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh (1287) do Phất Tất Liệt tiến hành và nhất là rơi vào thời điểm khi mẹ vua Trần Nhân Tông mất như sử liệu ghi.[9]
Rõ ràng giữa bao nhiêu biến động và phiền lụy của cuộc đời. Con người vẫn có thể chuyển hóa thân tâm “muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính”. Chẳng khác nào Pháp Loa nói trong bài kệ “Thị tịch”, khi con người cắt đức vạn duyên hảo huyền, tức là đoạn tận các nghiệp để chấm dứt hệ lụy:
“Vạn duyên tuyệt đoạn nhất thân nhàn
Tứ thập dư niên mộng ảo giang
Trân trọng như nhân hưu tá văn
Ná biên phong nguyệt cánh hoàn khoan”
(Dịch): Một thân nhàn nhã dứt muôn duyên
Hơn bốn mươi năm những hảo huyền
Nhân bảo các người đừng gạn hỏi
Bên kia trăng gió rộng vô biên.[10]
Phật luôn hóa hiện giữa đời, mỗi người chỉ cần đoạn xa tham, sống đạo đức nhân nghĩa với người khác thì ai cũng là Phật. Đây là giá trị thiết thực mà tư tưởng giác ngộ trong Cư Trần Lạc Đạo đem lại.
“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực đã đồ công”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hồi III)
Lý tưởng giác ngộ và giải thoát dành cho tất cả mọi người, xuất gia cũng như tại gia, sống trong chùa cũng như sống ngoài đời, miễn là con người biết tu tập tâm. Người trần tục tu hành thành công, được giác ngộ giải thoát, thì phúc đức ấy thật quý giá, còn tu trên rừng núi mà vẫn không giác ngộ thì đó là cái họa vô ích mà thôi.
Đó là tư tưởng mọi người đều bình đẳng trước chân lý, trước lý tưởng giải thoát giác ngộ của đạo Phật. Con người vốn là Phật, nhưng lại quên mất gốc của mình là Phật nên đi cầu tìm Phật ở đâu. Đây là quan niệm hướng nội của Phật giáo đời Trần, của Phật giáo đích thực, theo đúng lời dạy của Bổn sư:
“Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy dựa vào chính mình, không dựa vào nơi nào khác. Hãy dựa vào chánh pháp, không dựa vào nơi nào khác …”[11]
Phật giáo Đại Việt với nền Phật giáo thế sự, lấy chủ trương tùy tục để nhập thế. Con người không nhất thiết xuống tóc xuất gia, chỉ cần ngộ cái lý 5 uẩn là không, chân tâm không tướng ... thể nhập đời trong mối tương quan mà có thái độ sống thích hợp, cống hiến cho đời là cho đạo.
“Sạch với lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm.
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân.
Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hồi thứ VI)[12]
Hình tượng này là tiêu biểu cho mẫu người Đại Việt thời đại Đông Á nói chung, chứ không phải riêng gì cho Phật giáo. Những người làm nên sự nghiệp hào hùng của dân tộc ta vào thời này hầu hết là Phật tử.
Với chủ thuyết Cư Trần Lạc Đạo, hướng đến việc xây dựng mẫu người Phật tử nhằm bảo vệ độc lập và chấn hưng đất nước. “Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu”. Việc Trần Nhân Tông đem 10 điều thiện dạy khắp nơi đã phản ánh dùng chánh pháp để an dân với mục đích “Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài, đãi cát kén vàng, còn lại nhiều phen lựa lọc” (Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ VIII). Do đó, Trần Nhân Tông khuyến cáo người dân hãy tin tấn rèn lòng làm Bụt, như là sự thăng tiến đạo đức bằng nhiều phương thức để giác ngộ.
Sống ở đời mà vui với đạo theo vua Trần Nhân Tông là cuộc sống thiền. Đã là thiền thì tùy duyên, tùy căn, tùy thời mà sống với đạo.
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc niên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”
(Dịch): Cư trần vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền.[13]
2.4. Hình ảnh con người Đại Việt trong chiến tranh chống sự xâm lược của quân Nguyên Mông.
Xưa nay, các bậc đế vương thâu phục giang sơn bằng con đường gươm đao, chế ngự dân bằng quyền hành, bạo lực. Còn thời Trần thì khác, lên ngôi vua không hề có một giọt máu rơi, quần thần trong triều đình đều nhất trí và cũng không nghe dân tình than oán. Sức mạnh nào đã tạo nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường, có phải chăng chính đức từ, bi, hỷ, xả của nhà Phật đã thấm nhuần từ vua quan cho đến thứ dân. Đường lối lấy đức trị dân của triều Trần đã minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của dân tộc Việt Nam.
Đạo Phật thời Trần là đạo Phật của từ bi và trí tuệ, là hai đức hạnh hàng đầu của Phật giáo. Tinh thần từ bi của Phật giáo thời Trần là đường lối trị nước bằng đức trị còn hạnh trí tuệ là nó không hướng đến giải quyết các vấn đề thuần túy lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng ta có thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ, mà hướng tới giải quyết các vấn đề rất cụ thể, rất bức xúc, có tầm quan trọng đối với đời sống con người và trong công cuộc xây dựng đất nước như cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Để đánh thắng một kẻ thù có sức mạnh về vật chất và quân sự gấp hàng trăm lần chúng ta, dân quân ta dưới sự lãnh đạo của các ông vua Phật tử đã áp dụng những đường lối chiến lược và chiến thuật đầy trí tuệ, cho phép triển khai mọi ưu thế của một cuộc chiến tranh nhân dân, đánh địch ngay trên đất nước của mình.
Tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo thời Trần chính là ở chỗ luôn luôn chủ động gạn lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung, cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Trần trong những thế kỷ đầu xây dựng nền độc lập, tự chủ. Quả thật, Phật giáo thời Trần đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền độc lập quốc gia trong lịch sử nước nhà. Các vua trị vì đã thực sự thấm nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì không sợ gì sẽ bại vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp phần tích cực vào sự tồn tại lâu dài của thời Trần.
Qua những áng thơ văn của các Thiền sư - Vua - quan và những vị uyên thâm Phật pháp. Chúng ta có thể nói rằng :
Đạo Phật hiện hữu trên toàn thể đất nước Việt Nam bằng những chất liệu sống của con người. Giáo lý nhà Phật là những phương pháp chỉ bày cuộc sống, đưa sự sống đến chổ an vui Hạnh phúc. Người con Phật xuất gia hay tại gia đều phải quán triệt nguyên lý "Thực tại Tuệ giác" để hình thành một cuộc sống hoàn thiện nhất. Lịch sử Phật giáo từ thế kỷ 10 đến 14, qua thơ văn Lý Trần đã hiện rõ nét sinh động của nguyên lý "Thực tại Tuệ giác". Tinh thần từ bi của đạo Phật đả phá hủy ranh giới giữa Pháp trị và Đức trị, giữa bản chất và hiện tượng... Các Vua quan thời ấy đã áp dụng Đức trị vào Pháp trị nghĩa là sử dụng tinh thần từ bi trong lãnh vực pháp trị.
Phật giáo thời Lý Trần đã thực sự dẫn nhập nhu nhuyễn hài hoà những lời dạy của Đức Phật, thành những phương pháp và biểu đồ hướng dẫn mọi người mọi tầng lớp thực hiện tâm linh để hiện hành thực tại bằng nguyên lý "Thực tại Tuệ giác" trong cuộc sống bản thân và xã hội.
Đặc biệt đến thời Trần , các vị vua thời Trần đều học giỏi, mà lại rất giỏi về kinh điển nhà Phật. Như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều có căn bản vững vàng về Phật học. Họ hết sức ủng hộ Phật Giáo, vì nhận rõ rằng chỉ có giáo lý nhà Phật mới có thể làm cho dân giàu nước mạnh, chỉ có giáo lý nhà Phật mới đem lại cho muôn người an bình hạnh phúc.
Phật Giáo đời Trần hưng thịnh cực độ. Đất nước đời Trần thật sự độc lập, tự do. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã quét sạch những mầm mống tiêu cực. Hội nghị Diên Hồng do Tần Nhân Tông triệu tập đã nói lên được sự đồng tâm nhất trí giữa Nhà nước và Nhân dân. "Đánh - Hy sinh" đó là quyết nghị đồng thanh của Hội nghị Diên Hồng là tiếng nói ý thức của tự chủ, tự cường của dân tộc dưới sự thống nhất Phật Giáo thời đó.
Trần Thái Tông học Phật. Tu và hành theo Phật đã tạo ra một không khí học Phật trong giới trẻ ở triều đình và giới trí thức tại Thủ đô Thăng Long. Trần Thánh Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ là lớp người tiêu biểu xuất sắc trong sự nghiệp học Phật ấy. Sự học Phật ở đây không phải để thi cử và địa vị mà chỉ để sống đúng nghĩa con người. Trần Thái Tông đã nói: “Nhà chính trị phải thực hiện Phật giáo trong xã hội”.
Lối sống của Tuệ Trung Thượng sĩ là "Lối sống trong vòng thế tục, hoà ánh sáng của mình vào cuộc đời bụi bặm"[14]
Nhớ ánh sáng từ bi của đạo Phật mà dân chúng đã sống một đời sống an vui hạnh phúc. Chính vì thế mà họ có tinh thần đoàn kết cao biết tự lực, tự cường và kiên quyết không khuất phục trước một đoàn quân xâm lược nào dẫm chân trên đất nước ta cả.
2.5. Hình ảnh con người Đại Việt trong thời bình xây dựng đất nước
Phật giáo Việt Nam vốn có truyền thống gắn bó giữa đạo và đời, tham gia tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc. Khi đất nước giành được độc lập tự chủ, chính quyền phong kiến muốn nắm được lực lượng quần chúng là phải dựa vào nhà chùa để xây dựng và phát triển đất nước. Vì nhà chùa bấy giờ có sức tự lực rất mạnh, tinh thần hòa hợp đoàn kết rất cao được mọi người coi trọng. Các Thiền sư giúp vua xây dựng đất nước như Ngô Chân Lưu được vua Đinh ban hiệu Khuông Việt Đại sư. Theo Thiền Uyển Tập Anh thì bấy giờ “phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều tham dự”.[15]
Hình ảnh nhà sư tham gia chính trị giữ gìn đất nước đã nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với quốc gia dân tộc. Nhà sư nhập thế giúp đời là một hình ảnh đẹp, chứng tỏ bấy giờ đạo gắn liền với đời và Phật pháp với dân tộc, với đất nước không thể phân ly. Thời Trần, có rất nhiều nhà sư đã có những hành động cao cả, xả thân vì đất nước như thế.
Lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng đối với vua Trần Thái Tông, khi vua bỏ ngôi lên núi cầu làm Phật mà nhà vua đã ghi trong bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam như sau: “Phàm vi nhân quân giả dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm. Kim thiên hạ dục nghinh bệ hạ quy chi, tắc bệ hạ an đắc bất quy tai. Nhiên nội điển chi tham, nguyện bệ hạ mỗi vong tư tu văn”. (Phàm người làm vua lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình. Nay bề tôi muốn rước bệ hạ về thì bệ hạ sao có thể không về được? Song nghiên cứu Phật điển, xin bệ hạ chớ quên điều đó)[16]. Lời khuyên ấy thể hiện ý nghĩa nhập thế tích cực của Phật giáo thời Trần, phần nào bộc lộ lòng yêu nước, thương dân. Vâng lời chỉ dạy của Quốc sư, vua đã trở về với ngôi vị, nhà vua từ giã Yên Tử, từ giã Quốc sư tức từ giã đạo để về với đời để hành đạo. Qua mấy mươi năm, vua đã lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và đã “lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên hạ”(Tựu nhược dĩ thân vi thiên hạ chi tiên dã)[17]. Đó là tinh thần quên mình vì người, là tinh thần vô ngã vị tha của Phật giáo đã được các ông vua thời Trần vận dụng để đưa nước nhà đến chỗ phồn vinh.
3. Thành tựu đạt được của Phật giáo thời Trần
3.1. Văn hóa, giáo dục
Văn hoá thời Trần là một nền văn hoá độc lập mà đạo Phật giữ vai trò "cốt tuỷ". Khi các Nho thần Cao Bá Quát, Phạm Sư Mạnh yêu cầu vua Minh Tông nên thay đổi sinh hoạt văn hoá theo nhà Tống Trung Hoa. Minh Tông đã trả lời "Nước ta có nền văn hoá riêng và lại phong tục mỗi nơi mỗi khác. Nếu theo lời các ông mà thay đổi thì sẽ sanh đại loạn ngay".
Về văn hóa, Việt Nam thuộc bán đảo đông Dương gần hai quốc gia khổng lồ không chỉ về lãnh thổ mà cả về văn hóa là Trung Quốc và Ấn độ. Bởi vậy văn hóa Việt Nam có nhiều ảnh hưởng và mang tính chất có hai nền văn hóa Ấn – Trung, chi phối mãnh liệt nhất lúc này là Phật giáo. Thời Đinh, Lê, Lý, Trần Phật giáo hầu như là quốc giáo, bên cạnh đó còn có Nho giáo và Lão giáo, đã bước lên diễn đàn chính trị nhưng chưa phát triển mạnh.
Nói về văn hóa thời Trần, chúng ta không thể bỏ qua một điểm khá đặc biệt, đó là sự xuất hiện chữ Quốc ngữ (chữ Nôm), bắt đầu từ Hàn Thuyên 1282. Đây là cuộc cách mạng thật sự trong văn hóa và ngôn ngữ nói riêng. Về mặt tông phái, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, Thiền phái này thoát thai từ dòng Vô Ngôn Thông, bởi vậy nó mang đặc điểm của dòng thiền này là kết hợp thiền với đạo. Như vậy, trụ cột của văn hóa thời Trần là Phật giáo lấy nền tảng tư tưởng của nó là Thiền tông.
Phật giáo Thiền Tông Việt Nam thời Trần trong quan hệ với văn hóa văn nghệ dân gian. Lật lại từng trang sử đạo Phật đã làm rạng danh cho lịch sử nước nhà mà đặc biệt là thời Trần. Phật giáo Thiền Tông thời Trần không chỉ được truyền bá rộng rãi mà còn gây ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn xã hội, đồng thời để lại dấu ấn rất rõ ràng trong đời sống văn hóa Việt Nam.
Qua sử sách, chúng ta được biết, từ xưa chùa chiền không chỉ là nơi diễn ra nghi thức tôn giáo mà còn là nơi bảo lưu văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc với nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian. Các công trình kiến trúc nổi tiếng trong mấy thế kỷ đầu kỷ nguyên tự chủ, tiêu biểu cho nền nghệ thuật thời đại và trở thành những danh thắng, hầu hết đều là chùa chiền. Ở đây, giữa Phật giáo với văn hóa dân gian có mối quan hệ giao lưu gắn bó với nhau.
Truyền thuyết về Man Nương, về Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không trong Lĩnh Nam Chích Quái, truyền thuyết về thần Phù Đổng ở Việt Điện U Linh đều cho thấy rõ sự thâm nhập lẫn nhau giữa Phật giáo và những tín ngưỡng cũng như văn hóa dân gian. Hệ thống Phật Tứ pháp trong truyện Man Nương được nhân dân vùng lúa nước xem như là vị phúc thần để giúp dân được mưa thuận gió hòa, mùa màng phong túc. Ngày hội tắm Phật mùng bốn tháng tư âm lịch hàng năm trong truyện Man Nương cũng chính là ngày nam nữ bốn phương tụ hội về chùa để vui chơi ca múa. Chính sử thời phong kiến như Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Văn bia tháp sùng Thiện Diên Linh do Nguyễn Công Bật viết năm 1121 đều cho biết vua Lý Nhân Tông hàng năm vào mùa xuân đến chùa để cầu phúc và tắm Phật. Trong các lễ lớn được tổ chức tại chùa đều có vua ngự đến, ca hát vui chơi, có cả sư tăng và Phật tử tham gia. Qua đó cho thấy nhà chùa và các lễ hội Phật giáo có liên quan mật thiết với nhau.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần chưa có một loại nhạc cung đình riêng biệt với tính chất trang trọng. Mỗi khi có yến tiệc, ăn uống xong, vua quan thường hát múa theo các điệu dân gian: đứng thành vòng tròn, tay người nọ đặt lên vai người kia, chân người nọ dẫm lên chân người kia. …[18]. Có được tinh thần phóng khoáng và cởi mở trên có lẽ là nhờ sự kết hợp giữa tính dân chủ của dân tộc và tinh thần bình đẳng, phá chấp của Phật giáo.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa Phật giáo Thiền Tông với văn hóa dân gian còn thấy được qua nhiều mặt sinh hoạt trong cuộc sống từ việc chữa bệnh, trừ tà, cầu mưa, cầu gió, cầu an đến những chuyện lớn lao như cầu giúp sức đánh thắng giặc ngoại xâm…. Phật đã thành Bụt trong truyện cổ dân gian tuy ở cõi khác nhưng không cao xa mà rất gần gũi với đời sống con người, luôn ứng hiện để đáp ứng lời cầu cứu và nỗi đau khổ của con người. Trên lý thuyết dường như giữa Phật giáo dân gian và Phật giáo Thiền Tông không có nét chung nào. Nhưng trên thực tế thì những Thiền sư nổi tiếng, có phép thần thông, có thể đi mây về gió cũng là những người xuất phát từ quần chúng và được quần chúng tin cẩn tín nhiệm. Những Thiền sư nổi tiếng này đồng thời cũng là những người có cung cách sống giản dị, lời kệ, lời giảng pháp của họ có khi uẩn súc, nhưng có khi cũng rất mộc mạc tùy đối tượng đến tham vấn. Chính cái tâm hồn nhiên, cởi mở, bình đẳng, vị tha của các Thiền sư đã làm cho Phật giáo Việt Nam mang màu sắc chung là dung dị, đại chúng.
Về giáo dục và thi cử, để đáp ứng nhu cầu phát triển của bộ máy nhà nước, triều Trần đã không ngừng mở rộng hệ thống giáo dục và thi cử. Cũng dưới triều Trần, hệ thống giáo dục võ nghiệp phát triển khá mạnh mẽ, bên cạnh hàng loạt những trường dạy võ tức giảng võ đường. Lúc này, triều đình cũng đã tổ chức các khoa thi võ, nhưng bằng cấp vẫn chưa được rõ rệt như các triều đại sau này. Trong một số trường hợp đặt biệt, triều Trần còn tổ chức khoa thi để chọn nhân tài phù hợp với công việc nhà nước cần. Ví dụ khoa thi Tam giáo: chọn cả những người thông hiểu cả Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Khoa thi văn nghệ: chọn những người có khả năng đặc biệt về một việc nào đó (viết chữ, trang trí…) để bổ dụng vào cơ quan nào nếu xét thấy cần.
Nền giáo dục của Phật giáo nhằm phát triển tâm thức đưa đến cho con người một trí tuệ minh triết siêu phàm, phi đấu tranh, an tịnh giải thoát. Đức Phật với tâm thuần tịnh, toàn tri, toàn giác. Ngài thấy trong nước có vô số vi trùng, thấy trong vũ trụ có hằng hà sa số hành tinh. Ngài thấy chúng sanh sau khi chết, bị dẫn đi luân hồi trong sáu đường, rõ ràng giống như người đứng trên lầu cao thấy rõ mọi người qua lại ở ngã tư đường. Đời Trần là một trong những điểm son nổi bật nhất trong suốt quá trình giữ nước trong lịch sử Đại Việt. Trong đó Phật giáo đã tích cực góp phần tạo dựng cho xã hội đời Trần thành tựu rực rỡ. Một xã hội được giáo dục bằng giáo lý Ngũ giới và Thập thiện, mà các vua Trần xem đó là khuôn mẫu, là một chuẩn mực sống cho toàn dân. Điều này đã được chứng minh rất rõ ràng qua phần lịch sử. Phật giáo đời Trần đã góp phần xây dựng cải tạo gia đình và xã hội, đem lại an vui hạnh phúc cho mọi người, hướng đến đời sống chân, thiện, mỹ.
3.2. Kinh tế, chính trị
Thực chất chế độ kinh tế thời Trần không có gì khác nhau về căn bản bởi lẽ đất đai chủ yếu vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Tuy nhiên trong quy mô cũng như mức độ nhà Trần cho phép bán ruộng công thành ruộng tư, điều đó kích thích tầng lớp quý tộc đẩy mạnh khai khẩn đất hoang. Bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp thì thủ công nghiệp, giao thông buôn bán cũng có những biến chuyển đáng khích lệ. Cùng với sự phát triển của triều đại nhà Trần, giai cấp quý tộc đã có sự phân hóa, một bên là tôn thất nhà vua có thế lực, có sản nghiệp có khuynh hướng ủng hộ Phật giáo, một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí tuệ và đề cao nho giáo.
Về chính trị, sự biến cung đình tháng giêng năm 1226, đưa Trần Cảnh lên ngôi vua, không những kết thúc triều đại Lý mà còn kết thúc cả một thời kỳ nhiễu nhương rối loạn do cuộc hỗn chiến giữa các thế lực ở trung ương và địa phương gây ra. Các vua Trần đều ra sức tìm đủ mọi biện pháp để chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước. Đã cho ra đời nhiều bộ luật mới, đặc biệt là sự ra đời của bộ luật “Hình thư”, thừa nhận sự tồn tại của chế độ nô tỳ trong xã hội thời bấy giờ.
Qua sự phân tích trên, tinh thần nhập thế của Phật giáo đời Trần trong công cuộc phát triển đạo pháp và chấn hưng văn hóa dân tộc rất rõ ràng. Dân tộc Việt Nam đã tìm thấy được ở Phật giáo một hệ tư tưởng mới, tiến bộ có thể dùng để đối trị tư tưởng Khổng giáo vốn là chỗ dựa tinh thần của nền đô hộ Trung Hoa đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo luôn luôn thể hiện tinh thần bao dung, hòa bình. Điều này đã giải thích vì sao có sự hình thành quan điểm “Tam giáo đồng nguyên”. Không dừng lại ở đó, việc khai sáng triều đại độc lập, tự chủ đời Trần đã đánh dấu một bước hội nhập sâu rộng hơn của Phật giáo và văn hóa xã hội Việt Nam, với tinh thần bình đẳng tuyệt đối, đạo Phật đã tạo cơ sở cho sự đoàn kết toàn dân ngay những buổi đầu dựng nước. Thừa kế tư tưởng Phật giáo đời Trần là vấn đề nhập thế sinh động của mỗi người con Phật, trước hết là về mặt trí tuệ và tư tưởng vị tha, trong sạch mới có tri kiến chơn chánh, thực hành đúng giáo lý, tích cực hoạt động để tạo an lành hạnh phúc cho kẻ khác. Ngày nay nền văn minh của nhân loại càng đi lên, thì con người càng vật lộn sinh tồn với sự sống, chỉ có trí tuệ Phật giáo mới đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người mà thiết thực hơn hết là trách nhiệm ở mỗi Tăng Ni. Đó là sự gắn liền với đời sống trong tất cả mọi mặt, để hoàn thành sứ mạng “tác Như Lai sứ” và không tách rời lý tưởng giải thoát.
Viên Hải Mặc Nhân
--------------------------------------------------------------------
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Ngữ Văn 10 (2003), Tập Hai. Bộ 1. Nxb: Giáo dục, Nxb: Hà Nội
2. Thơ Văn Lý - Trần (1997), Tập I - II, Viện Văn học, KHXH, Nxb: Hà Nội
3. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1998), Bản Kỷ, Viện KHXHNV, Nxb: Khoa học xã hội, Hà Nội
4. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt(1997), Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành
5. Minh Chi (2000), Truyền Thống Văn Hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb: Tôn giáo
6. Nguyễn Lang (1974), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Nxb: Lá bối, Sài Gòn,
7. Nhiều tác giả (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb: Hà Nội
8. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb: Văn Hóa Thông Tin
9. Thích Hành Trụ (1970), Quy Sơn Cảnh Sách, Nxb: Sen Vàng
12. Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường bộ I, Đại Tạng kinh Việt Nam
13. Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích) (1990), Thiền Uyển Tập Anh, Phân Viện NCPH, Nxb: Văn học, Hà Nội
14. Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục, Phụ lục: Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục; Đào Duy Anh (dịch) (1974), Nxb: KHXH, Hà Nội
15. Đinh Gia Khánh (1960), Lời giới thiệu “Lĩnh Nam Chích Quái”, Nxb Văn Hóa, Hà Nội
16. Thích Mật Thể (1993), Việt Nam Phật giáo sử lược
17. Thích Đức Nhuận (1996), Đạo Phật và dòng sử Việt , NXB: Viện triết lý Việt Nam và triết học thế giới Colifornia USA.
[1] Ngữ Văn 10 (2003), Tập Hai. Bộ 1. Nxb: Giáo dục, Hà Nội, Tr. 22
[2] Thơ Văn Lý - Trần (1997), Tập I, Viện Văn Học, KHXH, Hà Nội, Tr. 204
[3] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1998), Bản Kỷ, Quyển I, Viện KHXHNV, Nxb: Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr. 26
[4] Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt(1997), Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành, Tr. 429
[5] Nguyễn Lang (1974), Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Lá bối, Sài Gòn, Tr. 217
[6] Nhiều tác giả (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb: Hà Nội, Tr.648 - 650
[7] Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb: Văn Hóa Thông Tin, Tr. 132
[8] Thích Hành Trụ (1970), Quy Sơn Cảnh Sách, Nxb: Sen Vàng, Tr. 32
[9] Đại Việt sử ký toàn thư (1998), Tập II, Viện KHXHNV, Nxb: Khoa học xã hội, Hà Nội, Tr. 59
[10] Viện văn học (1989), Thơ văn Lý Trần, Tập II, Nxb: KHXH, Hà Nội, Tr. 648
[11] Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường bộ I, Tr. 365
[12] Viện văn học (1989), Thơ Lý Trần, Tập II, Nxb: KHXH, Hà Nội, Tr. 507
[13]Viện văn học (1989), Thơ Lý Trần, Tập II, Nxb: KHXH - Hà Nội, Tr. 510
[14] Trích trong Thượng sĩ hành tụng - Trúc Lâm
[15] Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích) (1990), Thiền Uyển Tập Anh, Phân Viện NCPH, Nxb: Văn học, Hà Nội, Tr. 43
[16] Trần Thái Tông (1974), Khóa Hư Lục, Phụ lục: Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục; Đào Duy Anh (dịch), Nxb: KHXH, Hà Nội, Tr. 114
[17] Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục, Phụ lục: Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục; Đào Duy Anh (dịch) (1974), Nxb: KHXH, Hà Nội, Tr. 115
[18] Đinh Gia Khánh (1960), Lời giới thiệu “Lĩnh Nam Chích Quái”, Nxb: Văn Hóa, Hà Nội, Tr. 4