Lịch sử truyền thừa và phát triển của kinh Pháp Hoa


Lịch sử truyền thừa và phát triển của kinh Pháp Hoa rất xuyên suốt và sâu rộng trong mọi thành phần của xã hội qua nhiều ngôn ngữ của nhiều quốc gia trên thế giới

Ấn Độ

Hầu hết các kinh điển từ Nguyên thủy đến Đại thừa đều có điểm thống nhất rằng: Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Ngài không vội chuyển vận pháp luân, vì nghĩ rằng: “Giáo pháp do Ngài vừa chứng ngộ quá thâm diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có kẻ trí mới thấu hiểu, còn đa số quần chúng thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khó mà thấy được nguyên lý duyên khởi, nguyên lý tịch tịnh của các hành”.1

Phạm thiên Sahampati đọc được luồng sinh khí ấy, nên đã xuất hiện trước Đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài chuyển vận pháp luân.

Bấy giờ, Đức Phật nhìn hồ sen, thấy sen trong hồ có thứ đã lên khỏi bùn, nhưng chưa lên khỏi mặt nước, có thứ đã lên khỏi mặt nước, nhưng chưa nở hoa, có thứ chỉ hé nụ sắp sửa nở,… Đức Phật liền nghĩ: “Hết thảy chúng sanh ở nơi thế giới này cũng đều như thế. Có người trình độ thấp, có người trình độ vừa, có người trình độ cao, nhưng tất cả trình độ ấy nếu gặp được giáo lý do Ngài giảng dạy, họ cũng sẽ tu tập và được giải thoát, giác ngộ”.

Chính suy nghĩ về điểm này, mà Đức Như Lai thiết lập phương tiện để giáo hóa, như Ngài đã nói ở phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa:

“Tư duy như vậy rồi,

liền đến Ba La Nại

các pháp tướng vắng lặng

không thể diễn bằng lời.

Nhưng dùng sức phương tiện

nói cho năm Tỷ-kheo

gọi là chuyển Pháp luân

có danh từ Niết-bàn

cùng danh A-la-hán

với danh xưng Pháp, Tăng.

Từ đó đến ngày nay

chỉ khen pháp Niết-bàn

diệt tận khổ sinh tử

Tôi thường nói như vậy”.2

Và, khi đến vườn Nai, trước hết Đức Phật khuyên năm anh em Kiều Trần Như, nên từ bỏ hai cực đoan là ép xác khổ hạnh và buông lung trong các dục mà thực hành Trung đạo.

Trung đạo ở đây là Bát Chánh Đạo. Sau đó, Đức Thế Tôn chuyển vận pháp luân ba lần với mười hai hành tướng Tứ Thánh Đế cho năm anh em Kiều Trần Như, từ đó Phật – Pháp - Tăng có mặt một cách đầy đủ cả sự và lý.3

Như vậy, theo tinh thần diễn tả trong phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa, thì phương tiện và cứu cánh của kinh Pháp Hoa đã có mặt ngay ở buổi chuyển Pháp luân đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như qua pháp thoại Tứ Thánh Đế.

Ở vườn Nai, Đức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như và pháp Tứ Thánh Đế bằng chính cái thấy, cái biết của Ngài mà ta có thể thấy rõ như sau:

Đức Phật nói:

Đây là Khổ. Đó là “khai Phật tri kiến”.

Đây là Tập. Đó là “thị Phật tri kiến”.

Đây là Diệt. Đó là “ngộ Phật tri kiến”.

Đây là Đạo. Đó là “nhập Phật tri kiến”.

Và ta có thể hiểu thêm khi Đức Phật chuyển vận mỗi Thánh Đế, thì trong mỗi Thánh Đế đều có đủ cả “khai- thị- ngộ- nhập Phật tri kiến”.

Như vậy, mục đích của Đức Phật ra đời là “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến cho chúng sanh”, như Ngài đã nói ở phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa.

Tuy, Đức Phật khai thị ngộ nhập Phật tri kiến một cách bình đẳng như vậy, nhưng tùy theo căn cơ, nhân duyên của người lãnh hội mà có sự sai thù, dị biệt. Và cũng chính từ đó, mà có Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ-tát Thừa. Phẩm Dược Thảo Dụ của kinh Pháp Hoa đã minh họa cho điều này hết sức rõ ràng.

Pháp Đức Phật dạy mang tính xuyên suốt từ khi Ngài chuyển Pháp luân tại vườn Nai cho đến khi Ngài nhập Niết-bàn tại Sala song thọ.

Như ở phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, Ngài nói:

“Từ đó đến ngày nay

Chỉ khen pháp Niết-bàn

Diệt tận khổ sinh tử

Tôi thường nói như vậy”.

Chúng ta biết rằng, ở vườn Nai, Đức Phật đã chuyển vận đầy đủ Tứ Thánh Đế với mười hai hành tướng, nhưng ba hành tướng của Diệt Thánh Đế mới là chủ chốt trong sự chuyển vận pháp luân, vì đó là Thánh Đế siêu lý luận, thâm diệu, đến để mà thấy và tự mình chứng nghiệm.

Và trong Tứ Đế, Diệt đế là cứu cánh. Ba Đế kia là phương tiện để đạt tới cứu cánh. Nên, phương tiện ấy cũng là phương tiện của cứu cánh.

Khổ-Tập-Đạo được vận dụng và thiết lập từ Diệt đế. Và Diệt đế chính là Niết-bàn của Phật, là chân lý tối hậu mà Phật muốn chỉ bày cho hết thảy chúng sanh ngộ nhập.

Diệt đế là bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh, bởi hết thảy chúng sanh ai cũng có tự tính Niết-bàn. Và Diệt đế cũng là Phật tính, nên dù cho Đức Phật trải qua hơn bốn mươi năm thuyết pháp, bằng cách này hoặc bằng cách khác cũng để chỉ bày Phật tính, hay tự tính Niết-bàn, hoặc Diệt đế chân thật cho chúng sanh mà thôi.

Như vậy, chủ điểm của kinh Pháp Hoa đã có mặt ngay ở buổi pháp thoại đầu tiên của Đức Phật tại vườn Nai và xuyên suốt cả cuộc đời hoằng pháp của Đức Thế Tôn, khi thì Ngài nói bằng cách này, khi thì Ngài nói bằng cách khác, hoặc xa, hoặc gần, hoặc sâu, hoặc cạn, hoặc trực tiếp, hoặc ẩn dụ, hoặc nhân duyên, hoặc kể chuyện…, khiến cho thính chúng tùy theo căn tính mà thâm nhập.

Ngài Trí Khải (537-596) - Tổ sư Thiên Thai Tông của Trung Hoa, trong bài kệ phán giáo, Ngài cho rằng; Đức Thế Tôn thuyết kinh Pháp Hoa từ năm thứ 42 kể từ khi Ngài thành đạo.

Có thể theo Ngài Trí Khải, từ năm thứ 42 sau ngày Thế Tôn thành đạo, Ngài chỉ dạy cho đại chúng thuần giáo lý Pháp Hoa.

Nhưng, đây chỉ là sự phán giáo có tính cách tương đối.

Sự sắp xếp tuyển chọn và hệ thống hóa các kinh điển thành A Hàm, Nikàya, cho đến các kinh điển Đại thừa đều là của chư Tổ mà hoàn toàn không phải là Phật.

Đức Phật thuyết pháp là đối cơ, nhưng mà đối cơ có chủ đích. Những pháp thoại Ngài nói ra cho các đệ tử, được các đệ tử ghi nhớ, thuộc lòng và truyền tụng bằng nhiều loại thổ ngữ.

Sau Đức Phật nhập Niết-bàn khoảng bốn tháng, Tôn giả Mahàkassapa (Đại Ca Diếp) đã triệu tập một hội nghị tại núi Saptaparnaguha (Thất Diệp) ở Rajgrha (Vương Xá) để kết tập kinh luận.

Hội nghị kéo dài đến bảy tháng, Tôn giả A-nan gom tụng những gì thuộc về Kinh tạng. Tôn giả Ưu Ba Ly gom tụng những gì thuộc về Luật tạng. Sau đó được hội nghị giám định, gạn lọc và thông qua.4

Một trăm bốn mươi năm, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, một hội nghị khác được triệu tập tại thành phố Vesàli để kết tập kinh điển.

Hội nghị này có bảy trăm Tỷ-kheo được mời tham dự và kéo dài đến tám tháng mới hoàn thành.

Mục đích hội nghị này là hợp tụng lại kinh điển và giám định mười điều luật mới của nhóm Tỷ-kheo Bạt Kỳ đưa ra.

Hội nghị một và hai chỉ là khẩu dịch và ngôn ngữ chính được sử dụng trong hai hội nghị này là Ardha-magadhi. Các ngôn ngữ khác đều có thể được sử dụng, nhưng đều chuyển thành ngôn ngữ Ardha-magadhi.

Hội nghị thứ ba được tổ chức tại Pataliputra (Hoa Thị Thành) vào khoảng năm 244 trước Kỷ nguyên, dưới sự bảo trợ của vua A’soka (A Dục). Ngài Moggallanaputra-tissa (Mục Kiền Liên Đế Tu), đã đứng ra triệu tập gồm 1000 vị Tỷ-kheo về hội nghị để kết tập lại kinh điển, thời gian kéo dài đến chín tháng mới hoàn thành.5

Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư của Hữu bộ tại Kashmir dưới triều đại Kaniska (Ka Nị Sắc Ca).

Nguyên do có hội nghị này là vua Kaniska cứ mỗi ngày thỉnh một vị Tăng vào cung thuyết pháp, nhưng vua nghe giáo nghĩa của các vị giảng không giống nhau, vua ngờ vực, liền đem hỏi Ngài Pàrsva (Hiếp Tôn giả).

Ngài Pàrsva trình bày cho vua biết lý do Phật giáo có nhiều bộ phái khác nhau. Nghe vậy, vua muốn thống nhất ý nghĩa của các bộ phái Phật giáo lại, nên đã phát nguyện mở đại hội kết tập.

Hội nghị này, tổ chức tại Tinh xá Hoàn Lâm (Kundalavana-samghàràma), với 500 vị Tỷ-kheo tham dự.

Ngài Vasumitra (Thế Hữu) làm Thượng thủ, các Ngài Dharmatràtà (Pháp Cứu), Gosa (Diệu Âm), Buddhadeva (Giác Thiên), và Pàrsva (Hiếp Tôn Giả), là những vị chú thích tam tạng.

Kinh tạng gồm mười vạn bài tụng, Luật tạng gồm mười vạn bài tụng và Luận tạng gồm mười vạn bài tụng. Cả ba tạng gồm có 30 vạn bài tụng hàm chứa 600 vạn lời.

Kỳ kết tập này, tam tạng được khắc vào bản đồng và mất hết 12 năm mới hoàn thành.

Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ tư này xảy ra vào khoảng thế kỷ thứ hai Tây lịch.

Trong lần kết tập lần thứ hai, giáo đoàn đã có dấu hiệu phân hóa do quan điểm hiểu Phật và tiếp cận giáo lý.

Và sau lần kết tập này, các vị Đại đệ tử tùy theo cách nhớ, cách hiểu giáo lý của Đức Phật và đã truyền tụng giáo lý ấy cho các hàng đệ tử tại các trung tâm tu học.

Các trung tâm tu học được thiết lập tại Bắc Ấn, thầy truyền tụng kinh điển cho trò, cứ như vậy từ thế hệ này qua thế hệ khác, suốt hai trăm năm đến thời đại vua A’soka thì khẩu truyền kinh điển Nguyên thủy mới hoàn chỉnh.

Bấy giờ các đệ tử của Phật có nhiều sắc dân khác nhau, nên lúc còn tại thế, Đức Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều loại thổ ngữ. Và ngôn ngữ được Ngài sử dụng nhiều nhất là Magadhi, vì đây là sắc dân chính và đa số là đệ tử của Ngài.

Do đó, trong các hội nghị kết tập kinh điển một, hai và ba, phần nhiều đều sử dụng ngôn ngữ Magadhi để kết tập.

Nên, bước đầu truyền bá và khẩu dịch kinh điển, Tăng đoàn phần nhiều sử dụng ngôn ngữ Magadhi này.

Như vậy, kinh điển Nguyên thủy khởi đầu bằng tiếng Magadhi vào thời đại vua A Dục và hoàn chỉnh bằng truyền tụng mà không phải bằng văn bản.

Kinh tạng này truyền đến xứ Avanti (A-bàn-đề), trên bờ phía bắc sông Narmada, thì tại đây hai loại ngôn ngữ Magadhi và Avanti đã phối hợp với nhau tạo thành ngôn ngữ Pāli phôi thai. Và kinh điển Nguyên thủy bằng Magadhi đã được dịch ra bằng tiếng Pāli phôi thai này tại xứ Ujjayini (Ô-xa-diễn-ni), thủ phủ của Avanti (A-bàn-đề).

Từ Avanti, Ngài Mahinda - hoàng tử của vua A Dục là học trò của Ngài Ca Chiên Diên mang tạng kinh khẩu dịch bằng Pāli phôi thai này đi thuyền dọc theo vịnh Oman đến truyền bá tại Tích Lan.

Và cũng từ thủ phủ Ujjayini của xứ Avanti, kinh tạng khẩu truyền bằng tiếng Magadhi lại được truyền lên phương Bắc, tiếp giáp với Ngũ Hà nơi thổ ngữ Prakrit, đây là loại thổ ngữ cổ của Sanskrit.

Tại vùng Ngũ Hà này, một số kinh điển được dịch ra bằng tiếng Prakrit. Ngày nay, các nhà khảo cổ học, sử học đã phát hiện ra nhiều bản kinh nguyên thủy được ghi lại bằng ngôn ngữ này trên lá bối.

Lại nữa, kinh tạng Nguyên thủy bằng ngôn ngữ Magadhi lại truyền tụng đến vùng Kashmir, là nơi quê hương của cổ ngữ Veda (Vệ-đà). Phái Hữu bộ đã lập căn cứ hoằng pháp tại đây vào thời vua A Dục, khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch.

Tại Kashmir, tiếng Sanskrit cổ đã được gạn lọc và chuyển hóa thành loại Sanskrit thuần. Các Tăng sĩ đã sử dụng loại Sanskrit thuần này để phiên dịch và san định lại kinh điển, gọi là Agāma (kinh Tạng A Hàm).

Tuy nhiên, hiện nay các nhà sử học và khảo cổ học cũng đã phát hiện ra nhiều bản kinh tạng nguyên thủy bằng tiếng Sanskrit tạp chủng.

Còn tạng kinh nguyên thủy Pāli, tuy đã được truyền thừa từ xứ Avanti đến Tích Lan bởi Ngài Mahinda thời vua A Dục, nhưng phải đến thời Ngài Buddhaghosa (Phật Âm) ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5, Tây lịch mới san định bằng văn bản Pāli hoàn chỉnh và mệnh danh là Nikāya.

Kể từ cuộc kết tập kinh điển lần thứ hai, sau Phật diệt độ khoảng 140 năm, giáo đoàn bắt đầu phân phái thành hai.

Một là, Thượng tọa bộ (Sthavira), có khuynh hướng duy trì truyền thống.

Hai là, Đại chúng bộ (Mahāsamghika) có khuynh hướng canh tân.

Từ khi bị phân hóa kể từ lần kết tập thứ hai đến 300 năm sau, trong khoảng thời gian này, từ hai bộ phái đã phát triển lên đến 18 bộ phái, hoặc 20 bộ phái hay 24 bộ phái.

Theo tác phẩm Samayabhedopura-caracakra (Dị Bộ Tôn Luân Luận) của Ngài Vasumitra (Thế Hữu) là vị làm Thượng thủ trong lần kết tập kinh điển thứ tư của triều đại vua Kaniska, thì Phật giáo phân chia có 18 bộ phái.

Và theo tác phẩm Dipavamsa của Nam truyền thì Phật giáo có đến 24 bộ phái.

Đương nhiên, trong quá trình phát triển các bộ phái, thì mỗi bộ phái đều tìm đủ mọi cách để san định, phiên dịch, chú giải kinh, luật, luận, nhằm phát triển quan điểm của bộ phái mình.

Như vậy, xã hội Ấn Độ vào thời kỳ các bộ phái Phật giáo đua nhau phát triển, cũng là thời kỳ đạo Phật bị phân hóa nghiêm trọng, tạo ra cho xã hội nhiều sắc thái Phật giáo khác nhau, nó gây ảnh hưởng đến xã hội, khiến cho tiềm năng của xã hội bị phân lực.

Thời Phật còn tại thế, xã hội Ấn Độ có đến 62 luận thuyết, và hơn 90 tín ngưỡng tôn giáo sinh hoạt, chúng đã tạo ra những phân lực về đời sống tâm linh, dẫn đến sự phân hóa giai cấp trong xã hội, khiến cho những sinh hoạt xã hội Ấn Độ bấy giờ trở thành co cụm lại, mất đoàn kết giữa các đẳng cấp xã hội.

Và ngay ở trong Tăng đoàn thời Phật, cũng đã có lần bị phân hóa bởi chủ trương của Đề- bà-đạt-đa.

Đề-bà-đạt-đađã liên kết với vua A-xà-thế với ý đồ lãnh đạo Tăng đoàn, nhằm muốn thay thế vai trò của Phật, ông đã đưa ra năm luận điểm tương tợ với lời Đức Phật dạy, nhưng cực đoan, khiến chệch hướng Thánh đạo.

Năm luận điểm ấy là:

  1. Tỷ-kheo phải suốt đời mang y phấn tảo, tức là lượm giẻ rách người ta vứt bỏ mà làm y, tuyệt đối không nhận vải hay y của tín đồ cúng dường.
  2. Tỷ-kheo suốt đời khất thực, chứ không được thọ thỉnh cúng dường của tín đồ.
  3. Tỷ-kheo suốt đời phải sống trong rừng, tuyệt đối không được đến các tụ lạc.
  4. Tỷ-kheo suốt đời phải ngủ dưới gốc cây, tuyệt đối không được ngủ trong nhà.
  5. Tỷ-kheo suốt đời không được ăn thịt, dù là ăn ba thứ tịnh nhục.

Với những luận điểm cực đoan này của Đề-bà-đạt-đa đã bị Đức Phật bác bỏ, vì nó không thích ứng với đời sống Trung đạo.

Do đó, Đề-bà-đạt-đa đã liên kết với vua A-xà-thế để chống báng Phật, gây phân hóa và chia rẽ Tăng đoàn.

Và mỗi khi Tăng đoàn đã bị phân hóa thì quần chúng trong xã hội cũng bị mất niềm tin và chia rẽ trầm trọng.

Đây cũng là một trong những lý do khiến Đức Phật phải giảng dạy giáo lý Pháp Hoa để thống nhất mọi khuynh hướng tu tập của các hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia thời Phật, làm tiền đề để dẫn đến thống nhất mọi khuynh hướng xã hội.

Đối với Phật giáo, chỉ có Pháp Vương là Phật. Phật là điểm đồng quy từ mọi khuynh hướng tu học của các hàng đệ tử.

Nên, ở các kinh điển, Đức Phật thường dạy: Biển có một mùi vị duy nhất là mặn, cũng vậy Pháp của Như Lai chỉ có một mùi vị duy nhất là giải thoát.

Ở mặt xã hội, các kinh điển A Hàm và Nikāya có đưa ra hình ảnh của vị Chuyển Luân Thánh Vương, vị vua này có khả năng thống nhất bốn châu thiên hạ, đặt sự an bình của thiên hạ trên nền tảng của chánh pháp và đạo đức căn bản của xã hội là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Nên, Thập Thiện Nghiệp Đạo là điểm đồng quy đạo đức của tất cả những vị Chuyển Luân Thánh Vương bình trị tứ châu thiên hạ dưới bất cứ thời đại nào.

Cũng vậy, kinh Pháp Hoa đóng vai trò thống nhất chánh pháp thời Phật, không những làm điểm đồng quy cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát mà còn làm chỗ đồng quy cho cả Nhân thừa và Thiên thừa nữa.

Nghĩa là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ-tát thừa đều có mặt ở nơi Nhất thừa để chuyển tải đến Phật địa.

Nên, kinh Pháp Hoa đóng vai trò then chốt trong việc thống nhất chánh pháp thời Phật và sau khi Phật nhập diệt. Phẩm Phương Tiện và phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa cho ta thấy rõ điểm này.

Các nhà nghiên cứu Phật học Pháp Hoa như Winternitz hoặc Vaidya căn cứ vào một số dịch bản Pháp Hoa của Hán tạng, và những trích dẫn Pháp Hoa ở trong Đại Trí Độ Luận của Ngài Long Thọ để đưa ra sự đoán chừng niên đại hình thành văn bản kinh Pháp Hoa khoảng thế kỷ đầu Tây lịch hoặc muộn lắm là khoảng năm 150 sau Tây lịch.6

Burton Watson ở trong lời giới thiệu của The Lotus Sutra, dịch phẩm của ông bằng Anh ngữ từ bản Hán của Ngài La Thập, cũng nói rằng, không thể biết kinh Pháp Hoa được hình thành bằng văn bản ở đâu và lúc nào, nhưng chắc chắn phải trước năm 255 sau Tây lịch.7

Tuy nhiên, ta nên biết rằng, từ sự hình thành Pháp Hoa khẩu truyền cho đến hình thành Pháp Hoa văn bản hoàn chỉnh cũng phải mất hết vài ba thế kỷ.

Nên, nếu văn bản Pháp Hoa hình thành từ thế kỷ đầu Tây lịch, thì Pháp Hoa khẩu truyền hoàn chỉnh phải xuất hiện muộn lắm phải vào thời kỳ A’soka, nghĩa là khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây lịch.

Như vậy, ở Ấn Độ kinh Pháp Hoa đã đóng vai trò thống hợp giáo lý của Phật về một điểm cho tất cả các bộ phái. Điểm ấy chính là Phật Thừa. Và vì vậy, kinh Pháp Hoa làm chủ đạo cho việc thống nhất Phật giáo.

Pháp Hoa khẩu truyền và Pháp Hoa văn bản hình thành để đáp ứng nhu cầu ấy, nhằm đưa Phật giáo bộ phái trở về lại với nguồn gốc chính thống của chính nó.

Sự có mặt của Phật và tuệ giác vô thượng của Ngài, không có một trường phái nào có thể phủ nhận, nên phải lấy Phật làm gốc. Bỏ Phật là bỏ gốc. Bỏ Phật là bỏ đại nguyện độ sinh, để thỏa mãn những nhu cầu giải thoát riêng tư thì phải nghèo nàn; do nghèo nàn hiểu biết và nghèo nàn vật chất mà sinh ra tranh chấp; do tranh chấp mà bị phân hóa, dẫn đến chia rẽ tôn giáo và xã hội.

Bởi vậy, kinh Pháp Hoa không những đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền Phật giáo thống nhất và không những trong thời đại của Phật mà ngay cả những thời kỳ sau khi Phật Niết-bàn.

Kinh Pháp Hoa với vai trò quan trọng như vậy, nên nhất định phải ảnh hưởng đến những vị Luận sư vĩ đại của Ấn Độ như Ngài Mã Minh, Long Thọ vào những thế kỷ đầu, sau Tây lịch; Vô Trước và Thế Thân, khoảng thế kỷ thứ tư, sau Tây lịch.

Ngài Long Thọ đã trích dẫn kinh Pháp Hoa để làm luận chứng cho tác phẩm Đại Trí Độ Luận của mình và Ngài Thế Thân đã giảng luận Pháp Hoa qua tác phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu-ba-đề-xá, tác phẩm này đã được Lặc-na-ma-đề và Tăng Lãng dịch sang Hán văn đời Nguyên Ngụy và Bồ Đề Lưu Chi, Đàm Lâm dịch sang Hán văn vào thời đại Hậu Ngụy.8

Ngày nay, các nhà nghiên cứu Phật học Ấn Độ phần nhiều dựa vào các kinh bản đã được tuyển dịch bằng Pàli của Phật giáo Tích Lan, Hán bản của Phật giáo Trung Hoa, Tạng bản của Phật giáo Tây Tạng và một ít văn bản Sanskrit, hoặc Prakrit phát hiện được ở vùng Karmir hoặc Nepal, trên các trụ đá hoặc lá bối, nên khó định vị được nguyên trạng và chính xác những gì của Phật giáo Ấn Độ thời Phật tại thế và suốt cả chiều dài lịch sử mười mấy thế kỷ của Phật giáo Ấn Độ tiếp diễn sau đó.

Bởi lẽ thế kỷ XIII, Ấn Độ đã bị xâm lăng từ Ba Tư khiến tôn giáo bản địa bị quét sạch bởi thế lực sắc máu của tôn giáo thực dân.

Phật giáo gần như bị tuyệt chủng tại Ấn Độ, chùa chiền, tu viện, kinh sách bị đập phá, thiêu hủy toàn bộ, vắng bóng trên đất Ấn đến bảy trăm năm.

Và lại nữa, Phật giáo Ấn Độ cũng bị kỳ thị bởi Bà la môn giáo. Chính những bi kịch lịch sử chính trị và tôn giáo này, khiến cho chúng ta ngày nay khó mà nhận ra nguyên trạng kinh điển Phật giáo của Ấn Độ thời Phật.

Và cũng vì vậy, khi các nhà Phật học nghiên cứu kinh Pháp Hoa đưa ra những câu hỏi rằng: Hội đồng phiên dịch kinh Pháp Hoa ở Ấn Độ bằng khẩu truyền và văn bản gồm những ai và sự kiện ấy xảy ra lúc nào, do ai chủ xướng? Đấy là những câu hỏi mà không bao giờ có câu trả lời chính xác.

Nhưng, căn cứ vào kinh bản Pháp Hoa, ta đã biết một cách chắc chắn rằng, tạo thành văn bản Pháp Hoa không ai khác hơn, chính là những vị phân thân của Phật Thích Ca dưới hình thức chư Tổ.

Trung Quốc:

Phật giáo truyền đến Trung Quốc có bảy thuyết, trong đó thuyết khẩu truyền Phật giáo của Y Tồn cho rằng, niên hiệu Nguyên Thọ năm thứ nhất của thế kỷ thứ II trước Tây lịch, đời vua Ai Đế nhà Tiền Hán, có Y Tồn sứ giả nước Đại Nhục Chi, đem đạo Phật truyền miệng cho Trần Cảnh Hiên.9

Và thuyết, niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (67 T.L), đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán, cho rằng:

Vua Hán Minh Đế nằm mộng thấy người vàng có hào quang rực rỡ, tới từ phương Tây (Ấn Độ) làm sáng rõ cả cung đình. Vì vậy, vua đoán biết có Phật giáo ở Ấn Độ, liền sai các tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh, phái đoàn gồm có 18 người sang Tây Vức (Ấn Độ) để thỉnh tượng Phật.

Phái đoàn trên đường đi Ấn Độ, nửa đường gặp Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang chở kinh tượng đi về phía Đông, phái đoàn liền cung thỉnh hai Ngài đến Trung Quốc.

Bấy giờ vua Minh Đế rất mừng, liền chiếu sắc dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm nơi phiên dịch kinh điển cho hai Ngài.10

Hai thuyết này được nhiều nhà Phật học công nhận tính tương đối chính xác so với năm thuyết kia.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương11 được hai Ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamàtangà) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) phiên dịch và lưu truyền sớm nhất tại Trung Quốc.

Các từ ngữ A-la-hán, Bích Chi Phật, Bồ-tát, Phật đã được các Ngài chuyển tải ở trong kinh này.

Lại nữa, kinh này dã sử dụng các từ ngữ như Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng, để diễn tả Pháp thân Phật, Phật thể hay Phật tính.

Như vậy, ta thấy giáo lý Đại thừa đã đến với Phật giáo Trung Hoa rất sớm. Nhất là giáo lý Phật tính hay Phật pháp thân.

Lại nữa, bản kinh Tứ Tập Nhị Chương là bản kinh có gạn lọc để tuyển dịch, nên nó bao quát hết thảy các giáo lý từ Nguyên thủy đến Đại thừa, và từ Nhân thừa đến Phật thừa, do đó nếu ta nghiên cứu và phân tích kỹ càng hơn thì giáo nghĩa kinh Pháp Hoa cũng đã hàm chứa ở trong bản kinh này.

Và theo thuyết khẩu truyền của Y Tồn, ta cũng có thể suy đoán rằng; các câu chuyện như: “ba cõi là nhà lửa, hóa thành dụ, hạt minh châu trong chéo áo,…” của kinh Pháp Hoa có thể đã được khẩu truyền đến Trung Hoa trước bản dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương một vài thế kỷ, nghĩa là trước kỷ nguyên Tây lịch.

Bởi lẽ, cách đây hơn hai ngàn năm, việc hình thành một văn bản và văn bản ấy phổ cập đến mọi thành phần xã hội không đơn giản chút nào, nên việc khẩu truyền là phương tiện chuyển đạt đến mọi người rất nhanh chóng.

Do đó, tôi nghĩ rằng, khẩu truyền về kinh điển Đại thừa, trong đó có kinh Pháp Hoa truyền đến Trung Hoa trước cả kinh Tứ Thập Nhị Chương là điều mà chúng ta có thể tin được.

Kinh Pháp Hoa dịch từ Phạn sang Hán có năm bản:

  1. Pháp Hoa Tam muội: Sáu cuốn, do Chi Cương Lương Tiếp dịch năm 258, tại Giao châu. Bản dịch này hiện nay hiện không còn.
  2. Tát-đàm-phân-đà-lỵ kinh: Phiên âm từ chữ Saddharmapundarikasutra. Bản này không ghi tên người dịch, hiện có trong Đại chính 9, tr 197, số ký hiệu 265.
  3. Chánh Pháp Hoa kinh: Mười cuốn, Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn, năm 286. Bản dịch này hiện có ở trong Đại chính 9, tr 63, số ký hiệu 263.
  4. Diệu Pháp Liên Hoa kinh: Bảy cuốn, do Cưu Ma la Thập dịch, vào thời Diêu Tần, năm 404. Hiện có ở trong Đại chính 9, tr 1, số ký hiệu 262.
  5. Phật Thuyết Pháp Hoa Tam Muội Kinh: Một cuốn, do Trí Nghiêm dịch, vào thời Lưu Tống (420-479). Hiện có ở Đại Chính 9, tr 285, số ký hiệu 269.
  6. Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh: Bảy cuốn, do Xà Na Quật Đa và Cấp Đa dịch, vào đời Tùy, năm 601. Hiện có ở trong Đại chính 9, tr 134, số ký hiệu 264.

Trong các dịch bản ấy, bản dịch của Ngài La Thập, đuợc lưu truyền rộng rãi và thường được các Nhà Phật học Pháp Hoa dựa vào để chú giải.

Trong lịch sử phát triển kinh Pháp Hoa tại Trung Hoa, vào đời Tùy, năm 538 Tây lịch có Trí Khải đại sư, đã làm ba bộ luận để chú giải kinh Pháp Hoa gồm:

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa: Nói về nghĩa lý mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa. Hai mươi cuốn. Hiện có ở trong Đại chính 33, tr 681, số ký hiệu 1716.

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú: Giải thích từng câu từng chữ của kinh Pháp Hoa. Hai mươi cuốn. Hiện có ở trong Đại chính 34, tr 1, số ký hiệu 1718.

Ma Ha Chỉ Quán: Nói về pháp Chỉ và Quán theo kinh Pháp Hoa, hai mươi cuốn, hiện có ở Đại Chính 46, tr

01, số ký hiệu 1911.

Ngài Trí Khải đã thành lập Pháp Hoa Tông, lấy kinh Pháp Hoa làm tông chỉ cho sự tu tập và hành đạo. Bấy giờ Tông phái này có ảnh hưởng rất lớn tại Trung Hoa.

Ngoài Trí Khải ra, ở Trung Hoa cũng đã có rất nhiều Nhà Phật học chú giải kinh Pháp Hoa như:

 

Pháp Vân, đời Lương, soạn Pháp Hoa Kinh Nghĩa Ký, tám cuốn, hiện có ở Đại Chính 33, tr 572, số ký hiệu 1715.

Trạm Nhiên, đời Đường, thuật Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm, hai mươi cuốn, hiện có ở Đại Chính 33, tr 815, số ký hiệu 1717.

Trạm Nhiên, đời Đường, thuật Pháp Hoa Văn Cú Ký, ba mươi cuốn, hiện có Đại Chính 34, tr 157, số ký hiệu 1719.

Cát Tạng, đời Tùy, soạn Pháp Hoa Huyền Luận, mười cuốn, hiện có ở trong Đại Chính 34, tr 361, số ký hiệu 1720; soạn Pháp Hoa Nghĩa Sớ, mười hai cuốn, hiện có ở Đại Chính 34, tr 451, số ký hiệu 1721; và tạo Pháp Hoa Du Ý, một cuốn, hiện có ở Đại Chính 34, tr 633, số ký hiệu 1722.

Khuy Cơ, đời Đường, soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, hai mươi cuốn, hiện có ở Đại Chính 34, tr 651, số ký hiệu 1723.

Tuệ Chiếu, đời Đường, soạn Pháp Hoa Huyền Tán Nghĩa Quyết, một cuốn, hiện có ở Đại Chính 34, tr 854, số ký hiệu 1724.

Nguyên Hiểu, Tân La, soạn Pháp Hoa Tông Yếu, một cuốn, hiện có ở Đại Chính 34, tr 870, số ký hiệu 1725.

Kinh Pháp Hoa đã ảnh hưởng rất nhiều trong đời sống tâm linh, đạo đức, tín ngưỡng và văn hóa Trung Hoa, và còn rất nhiều bản chú, giải và sớ kinh Pháp Hoa của những Pháp sư và học giả Trung Hoa ở trong các thời kỳ Minh, Thanh và cận đại nữa.

Vào thời cận đại, Ngài Thái Hư Đại Sư đã viết Kinh Pháp Hoa giảng lục, và hiện nay tại Pháp Cổ Sơn, trung tâm tu học của Tăng Ni phật tử Trung Hoa Đài Bắc, do Ngài Thánh Nghiêm xây dựng năm 1992, trên ngọn núi Kim Sơn, có một đại hồng chung bằng đồng 25 tấn, cao 4,5m đường kính rộng 2,6m đã khắc đầy đủ 28 phẩm kinh Pháp Hoa bằng chữ Hán.

Điều này chứng tỏ rằng, kinh Pháp Hoa đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân Trung Hoa suốt cả chiều dài lịch sử truyền bá của nó cho đến ngày nay.

Nhật Bản:

Nhật Bản kể từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ bảy sau Tây lịch là thời kỳ phát triển thành một quốc gia thống nhất, phát triển về văn hóa và có một nhà nước tương đối hoàn chỉnh ra đời. Phật giáo chính thức truyền vào Nhật Bản từ thế kỷ thứ sáu Tây lịch.

Thánh Đức Thái Tử (Shòtoku Taishi 574- 622) nhiếp chính Nhật Bản là vị hộ pháp đắc lực đối với chánh pháp. Năm 577, Kinh Pháp Hoa bản dịch của Ngài La Thập, truyền đến Naniwa, nay là Osaka ở Nhật bản.

Năm 614, Thánh Đức Thái Tử giảng kinh Pháp Hoa cho Vương triều và biên soạn Pháp Hoa Nghĩa Sớ (Hokke-gisho), đây là bản kinh Pháp Hoa Nghĩa Sớ xưa nhất của Nhật Bản, hiện có bốn cuốn, ở trong Đại Chính 56, tr 64, số ký hiệu 2187.

Thánh Đức Thái Tử đã ban hành Hiến Pháp Thất Thập điều, dựa vào giáo nghĩa của kinh Pháp hoa. Kinh Pháp Hoa làm tư tưởng chủ yếu cho Hiến Pháp Thập Thất Điều của Nhật Bản và từ Hiến Pháp này, Thánh Đức Thái Tử đã soạn bộ luật đầu tiên cho Nhật bản. Kinh Pháp hoa và tinh thần luật do Thánh Đức Thái tử soạn hiện nay vẫn còn ảnh hưởng trong cách sinh hoạt của nhân dân Nhật.

Những cao tăng Nhật Bản như Minh Nhất, đã biên soạn Pháp Hoa Lược Sao, một cuốn, hiện có ở trong Đại Chính 56, tr 129, số ký hiệu 2188. Trung Toán?, đã biên soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thích Văn, ba cuốn, hiện có ở trong Đại Chính 56, tr 144, số ký hiệu 2189. Không Hải, biên soạn Pháp Hoa Kinh Khai Đề, một cuốn, hiện có ở trong Đại Chính 56, tr 172, số ký hiệu 2190. Giác Khâm? biên soạn Pháp Hoa Kinh Bí Thích, một cuốn, hiện có ở Đại Chính 56, tr 184, số ký hiệu 2191. Viên Trân, biên soạn Nhập Chân Ngôn Môn Trú Như Lai Thật Kiến Giảng Diễn Pháp Hoa Lược Nghi, hai cuốn, hiện có ở Đại Chính 56, tr 189, số ký hiệu 2192.

Kinh Pháp Hoa không những chỉ được các bậc cao tăng Nhật Bản biên chép dịch thuật, trước tác mà còn diễn giảng và tạo thành những tông chỉ cho những tông phái Phật giáo tại Nhật Bản nữa.

Đại Sư Tối Trừng (Saichò 767-822), là vị lập Thiên Thai Tông đầu tiên ở Nhật Bản. Năm hai mươi tuổi, Tối Trừng đến Nara học giáo lý Thiên Thai mà nhất là ba tác phẩm của Trí Khải tổ thứ ba của Thiên Thai Tông Trung Hoa (Tổ thứ nhất của Thiên Thai Tông Trung Hoa là Huệ Văn (505-577); Tổ thứ hai là Huệ Tư (514-577), với những Phật học Nhật Bản bấy giờ. Sau đó Tối Trừng sang Trung Hoa theo học Thiên Thai Tông với Đạo Toại, Chân Ngôn tông với Thuận Giáo và Thiền Tông với Tu Nhiên.

Sau một năm Tối Trừng về lại Nhật Bản, lập Thiên Thai Tông Nhật Bản và giảng kinh Pháp Hoa. Không những vậy, Tối Trừng còn lập Chân Ngôn Mật Giáo, Thiền Tông và Luật Tông. Trung tâm giảng dạy của Tối Trừng là ở núi Hiei (Tỉ Duệ) là Trung Tâm giáo dục lớn nhất của Phật giáo Nhật bản bấy giờ.

Đại Sư Nhật Liên ( Nichiren 1222- 1282), sinh năm 1222, xuất thân trong một gia đình ngư phủ ở Kaminato, awa (An phòng Tiểu ấu), ở miền nam duyên hải nước Nhật. Lớn lên 15 tuổi được gởi đến Thanh Từng (Kiyozumi), một Tu viện gần nhà để hành điệu.

Trong thời gian hành điệu, sự thắc mắc lớn nhất của Nichiren là “Thế nào là sự thật mà đức Phật đã giảng dạy?”. Sự thắc mắc ấy của Ngài không được giải quyết thỏa đáng ở Thanh Từng. Nichiren tìm đến Kiếm Thương và học đạo ở núi Tỷ Duệ, Nichiren liễu ngộ được kinh Pháp Hoa, theo cách nhìn của Thiên Thai Tông và Nichiren tuyên bố: “Pháp Hoa là pháp duy nhất cứu độ chúng sanh ra khỏi thời đại suy đồi”. Sự hành trì theo Pháp Hoa là luôn luôn trì tụng đề kinh Pháp Hoa đừng đề gián đoạn. Theo Nichiren, đề kinh Pháp Hoa bao gồm đầy đủ cả lý nghĩa và hành sự của Pháp Hoa, nên chỉ cần niệm “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, bất cứ lúc nào và ở đâu là toàn thể kinh Pháp Hoa đều có mặt. Theo Nichiren, kinh Pháp Hoa là thông điệp chân thật sau cùng của đức Phật. Nichiren đã diễn giảng Pháp Hoa với tinh thần mới và thành lập Pháp Hoa Tông mới, để truyền bá tinh thần Pháp Hoa theo cách nhìn của ông, người ta gọi Tông phái Pháp Hoa mới của ông là Nhật Liên Tông để gắn liền với tên ông. Ông cũng đã bị chống đối rất nhiều và cũng đã gặp nhiều khó trên con đường hoằng pháp và mất tại Ikegami, gần Tokyo, năm 1282.

Tinh thần truyền bá Pháp Hoa ở Nhật Bản theo Nhật Liên Tông được tiếp tục một thời gian bởi các đệ tử của ông, nhưng sau đó lại bị phân hóa và lu mờ trên đất Nhật. Tuy vậy, Nhật Liên Tông vẫn còn duy trì trên đất Nhật cho đến ngày nay.

Vào thời cận đại và hiện đại, các Nhà học giả Nhật Bản như: Susuki, cũng đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã trình bày kinh này ở trong tác phẩm Thiền luận của ông; Junjiro Takakusu cũng đã nghiên cứu kinh Pháp Hoa và đã trình bày kinh Pháp Hoa trong tác phẩm The Essentials of Buddhism Philosophy nghiên cứu của ông và đã được Đại học Hawaii, Honolulu xuất bản đầu tiên năm 1947 và tái bản vào những năm 1949, 1956; Nikkyo Niwano ông đã nghiên cứu ba bộ kinh Pháp Hoa, gồm Kinh Vô lượng nghĩa (Muryògi-kyò), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Myòhò Renge-kyò) và Kinh Quán Bồ-tát Phổ Hiền Hạnh Pháp (Kan-fugen-bòsutsugyòbò-kyò), dưới cách nhìn mới và tác phẩm nghiên cứu của ông đã được Kòjiro Miyasaka dịch ra tiếng Anh với tên là Buddhism For Today.

Ba bộ kinh Pháp Hoa này, là bản dịch của Bunnò Katò, Yoshirò Tamura và Kòjorò Miyasaka, với sự hiệu đính của W.E. Soothhill, Wilhem Schiffer, Pier P. Del Campana và Risshò Kòsei Kai vào các năm 1971, 1974, 1975 và do Kòsei Publishing Company, Tokyo xuất bản 1975.

Kinh Pháp Hoa được dịch ra tiếng Nhật hiện nay có ít nhất là năm bản:

v Phạn Hán Đối Chiếu Tân Dịch Pháp Hoa kinh:

Do Hàn Lâm Đại Học Sĩ Nanjoo dịch bằng sự đối chiếu giữa Hán và Phạn vào năm 1913.

v Phạn Bản Hòa Dịch Pháp Hoa Kinh:

Do hai giáo sư Sakamoto và Iwamoto dịch từ bản Phạn ngữ Nespal và nguyên bản của Kimarajiva.

v Phạn Tạng Truyền Dịch Quốc Dịch Pháp Hoa Kinh:

Do giáo sư Kawaguchi so sánh bản tiếng Phạn và bản Tây Tạng mà dịch sang Nhật ngữ.

v Hòa Dịch Pháp Hoa Kinh:

Do giáo sư Yamagawa kê cứu các hán bản mà dịch sang Nhật ngữ.

v Hán Hòa Đối Chiếu Diệu Pháp Liên Hoa Kinh:

Do giáo sư Shimachi và một số học giả khác so sánh và kê cứu các bản kinh đang lưu hành để giám giám định lại kinh Pháp hoa Nhật ngữ.

Như vậy, kinh Pháp Hoa có mặt ở Nhật bản vào thế kỷ sáu đã tạo ra một nguồn sinh lực lớn cho những sinh hoạt tín ngưỡng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và chính trị, góp phần rất lớn vào những văn minh nước Nhật ngày nay.

Việt Nam:

Bản Pháp Hoa Tam Muội Kinh là bản kinh do Đạo Hinh- Cương Lương Lâu Tiếp dịch sang Hán tại Giao Chỉ, năm 258 và lưu truyền tại Việt Nam sớm nhất, nhưng văn bản của kinh đã bị thất lạc.

Các dịch bản Kinh Pháp Hoa khác, cũng đã truyền đến Việt Nam muộn lắm là khoảng 450 TL, vì trong lá thư Đạo Cao gởi cho Lý Miểu có trưng dẫn kinh Pháp Hoa bàn về sự có mặt của Đức Phật tại Linh Sơn khoảng trong thời gian này.

Đọc các tác phẩm văn học Lý Trần về mặt Phật học hiện có, ta thấy giáo lý Bát Nhã và Kim Cang có ảnh hưởng rất lớn đối với những tác phẩm này hơn kinh Pháp Hoa.

Tuy vậy, nhưng đọc tháp bia Sùng Thiện – Diên Linh của chùa núi Long Đội (nay thuộc xã Đội Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà, tháp bia này hiện nay vẫn còn), của vua Lý Nhân Tông (1072 – 1128), ta thấy văn bia có nhắc đến Thí dụ người cùng tử quên ngọc minh châu trong chéo áo của kinh Pháp Hoa, với văn phong: “Y trung vong bảo nhi bất tự tri = quên mất châu báu ở trong chéo áo mà không tự biết”.

Ví dụ này là nằm ở phẩm Thọ Ký năm trăm đệ tử của kinh Pháp Hoa, ở phẩm này đức Phật dùng ví dụ quên hạt minh châu trong chéo là để dụ rằng: “Người tu tập quên mất đại nguyện Đại thừa, thì nghèo nàn phước đức và trí tuệ, nếu nhớ lại đại nguyện Đại thừa thì tức khắc trở nên giàu có. Cũng vậy, viên ngọc minh châu vốn nằm trong chéo của kẻ cùng tử, do quên viên ngọc trong chéo áo mà nghèo cùng, nếu có người nhắc nhỡ, chỉ bày liền nhớ lại là tức khắc giàu có và có thể tùy nghi lấy dùng.

Vua Lý Nhân Tông đã nhắc lại Thí dụ này ở trong văn bia Tháp Sùng Thiện – Diên linh, chứng tỏ rằng, kinh Pháp Hoa vào Triều Lý đã được các vua am hiểu, hành trì và đã có ảnh hưởng nhất định trong hành xử đối với việc trị nước an dân vua.

Và đọc Tham đồ hiển quyết của Thiền sư Viên chiếu (999 – 1091) đời Lý, ta thấy câu chuyện Long nữ hiến châu ở phẩm Đề-bà-đạt-đacủa kinh Pháp Hoa, đã được một vị Tăng hỏi Viên Chiếu rằng:

“Long nữ hiến châu thành phật quả

Đàn na xả thí phúc như hà?”.

 

Nghĩa là:

“Long nữ hiến châu thành quả Phật,

Phước người bố thí như thế nào?”.

 

Thiền sư Viên chiếu trả lời:

“Vạn cổ nguyệt trung quế

Phò sơ tại nhất luân”.

 

Nghĩa là:

“Cây quế vạn đời ở trong trăng

Hiểu thấu giúp nhau tại một vòng”.

Cách trả lời của Thiền sư Viên Chiếu đối với vị Tăng là cách trả lời mang tính Thiền học hơn là Giáo học. Việc hiến châu của Long nữ để thành Phật, chẳng khác nào cây quế vạn đời ở trong trăng. Quế ở trong trăng cũng như chúng sanh vốn ở trong Phật tính vậy. Trăng và ảnh tượng của trăng hay vành trăng tuy là hai, nhưng chính là một vậy. Nên, Viên Chiếu nói: “Phò sơ tại nhất luân = Hiểu thấu giúp nhau tại một vòng”. Do đó, phước đức trong việc hiến châu của Long nữ và phước đức của người bố thí đồng thể với nhau về tâm xả và đồng với một mục đích như nhau là thành Phật, tức là chứng nhập Phật tính.

Như vậy, ta chưa tìm ra, bản chú giải nào của kinh Pháp Hoa ở triều Lý, nhưng giáo lý Pháp Hoa đã có ảnh hưởng nhất định đối với nền Phật học đời Lý như ta đã thấy ở văn bia tháp Sùng thiện – Diên linh, chùa núi Long Đội của vua Lý Nhân Tông và Tham đồ hiển quyết của Thiền sư Viên Chiếu.

Đọc bài thơ thị tịch của Ngộ Ấn Thiền sư (1020 -1088) đời Lý, ta thấy bản thể tịch diệt của kinh Pháp Hoa được Thiền sư khai thị qua bài kệ bốn câu như sau:

“Diệu tính hư vô bất khả phan

Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

Liên phát lô trung thấp vị can”.

Nghĩa là:

“Bản tính nhiệm mầu rỗng lặng không thể vin vào

Tâm giác ngộ được thể tính rỗng lặng khó làm sao?

Trên núi viên ngọc bị thiêu đốt mà màu sắc vẫn tươi thắm

Hoa sen nở ra trong lò lửa mà chưa hề bị khô héo”.

Đối với Ngộ Ấn Thiền sư, hoa sen không phải nở ra trong bùn mà nở ra trong lò lửa. Lò lửa ấy là chỉ cho ba cõi mà kinh Pháp Hoa gọi là “tam giới do như hỏa trạch”. Chúng sanh ở trong ba cõi ngày đêm bị lửa phiền não đốt cháy, nhưng một người có hạnh nguyện Đại thừa hay hạnh nguyện Pháp Hoa, thể nhập được bản thể vắng lặng xưa nay của vạn hữu, cho dù vị ấy đang ở trong lửa sinh tử, vẫn không bị lửa ấy đốt cháy mà chính lửa ấy lại làm cho hạnh nguyện Đại thừa, hạnh nguyện Pháp Hoa càng thêm kiên cố, càng thêm sáng chói, tươi nhuần, bất khả hoại.

Như vaäy, ở đời Lý, dù ta chưa tìm thấy có một tác phẩm chú giải nào về kinh Pháp Hoa, nhưng qua một số thi ca hiện còn của các Thiền sư, ta thấy về mặt chứng ngộ, quí vị đã xâm nhập bản môn của kinh này một cách sâu sắc và đầy thi vị.

Ở đời Trần, Thí dụ Nhà Lửa của kinh Pháp Hoa đã được vua Trần Thái Tông nêu lên ở trong Khuyến Phát Tâm văn như sau:

“Ái hà xuất một kỷ thời hưu

Hỏa trạch ưu tiên hà nhật liễu”.

 

Nghĩa là:

Sông ái nổi trôi bao giờ hết

Đốt thiêu nhà lửa ngày nào xong?

Ví dụ Nhà Lửa của kinh Pháp Hoa, vua cũng đã nêu lên ở trong văn Khải bạch buổi sáng như sau:

“Trường vi hỏa trạch phanh tiên

Vĩnh bị ái hà một nịch’’.

 

Nghĩa là:

“Bị Nhà Lửa mãi hoài thiêu đốt;

Bị sông yêu muôn thuở nhận chìm”.

Và ví dụ này, vua cũng đã nêu lên trong lời văn bạch buổi chiều như sau:

Kính khải:

“Thập phương Đại giác,

Tam thế hùng sư.

Huy tuệ kiếm ư tà lâm;

Duệ từ phong ư hỏa trạch”.

 

Nghĩa là:

Kính bạch:

“Bậc Đại Giác mười phương;

Đấng Hùng Sư ba đời.

Vung kiếm tuệ nơi rừng tà;

Thổi gió từ nơi Nhà Lửa”.

Và cũng trong Khuyến Phát Tâm Văn, ý nghĩa Nhất thừa của kinh Pháp Hoa đã được vua xem là con đường tắt để thoát ly sinh tử, vua nói:

Dục siêu lục đạo chi chu lưu

Duy hữu Nhất thừa chi tiệp kính”.

Nghĩa là:

“Muốn vượt vòng luân hồi lục đạo

Con đường tắt, chỉ có Nhất thừa”.

Những chứng cứ ấy cho ta biết rằng, kinh Pháp Hoa đã được vua Trần Thái Tông nghiên cứu, học hỏi và trở thành nếp chiêm nghiệm tu tập của mình, trong mỗi lúc dâng hương cúng dường Tam bảo, hay mỗi lúc tĩnh tọa thiền quán.

Ngài Pháp Loa (1284-1330), đệ nhị Tổ Thiền Phái Trúc lâm Yên Tử cũng đã viết Pháp Hoa Khoa Sớ, để dạy cho Tăng Ni Phật tử đời Trần.

Và trong bài thơ tặng Tổáư Huyền Quang, vua Trần Minh Tông đã nói đến Nhà lửa ở kinh Pháp Hoa và hạnh nguyện liên hệ đến nhà lửa ấy với Tổ sư như sau:

 “Cố ngã hỏa trạch trung

Cái thị hữu túc duyên”.

Nghĩa là:

“Nhìn lại trong nhà lửa của ta

Bởi do có nhân duyên đời trước”.

Và cũng trong bài thơ này, vua Trần Minh Tông đã ca ngợi tâm hạnh của Ngài Huyền Quang đệ Tam Tổ Trúc Lâm liên hệ đến Phật Oai Âm Vương ở kinh Pháp Hoa, phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh như sau:

 “Côn- sơn đại Đạo sư

Vị ngã tác phước điền

Vương Thần tất quy kính

Phật đạo tục hoàn liên.

Pháp kế nhị Tổ hậu

Cứu cánh Oai Âm tiền

Bất trước văn tự tướng

Diễn thuyết Như lai thiền.

 

Nghĩa là:

“Đạo Sư lớn Côn-sơn

Vì ta làm ruộng phước

Vua quan đều kính trọng

Phật đạo liên tiếp mãi.

Kế thừa Pháp nhị Tổ

Cuối cùng trước Oai Âm

Không kẹt tướng chữ nghĩa

Diễn thuyết Thiền Như lai”.

Ở kinh Pháp Hoa, Đức Phật Oai Âm Vương đã từng chứng minh và hộ trì cho đại nguyện hành trì kinh Pháp Hoa của Bồ-tát Thường Bất Khinh trải qua vô lượng kiếp không gián đoạn và Bồ-tát Thường Bất Khinh thực hành đại nguyện Pháp Hoa ngày xưa trước Phật Oai Âm Vương ấy, ngày nay chính là Đức Phật Thích Ca.

Vua Trần Minh Tông đã sử dụng đại nguyện Pháp Hoa này để ca ngợi hạnh nguyện của Tổ sư Huyền Quang vậy.

Việc dẫn chứng Thí dụ Nhà lửa trong kinh Pháp Hoa của vua Trần Thai Tông, Trần Minh Tông và viết Pháp Hoa Khoa Sớ của Ngài Pháp Loa đệ nhị Tổ của Thiền phái Trúc lâm Yên Tử, những điều này chứng tỏ rằng, giáo nghĩa Pháp Hoa đã có những ảnh hưởng nhất định vào thời đại Phật giáo thời Trần.

Vào đời Lê, Minh Châu- Hương Hải (1628-1715), đã chú giải kinh Pháp Hoa đầu tiên bằng tiếng nôm. (Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục, Cảnh Hưng Bát Niên, Tuế Thứ Đinh Mão, Ngũ Nguyệt, Cát Nhật Từ Pháp Soạn Thuật – Cảnh Hưng 8 – 1747).

Minh Dung- Pháp Thông đời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), đã khắc in Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh vào năm 1734. Bản gỗ này hiện đang tàng trữ tại chùa Phật Quang, thị xã Phan Thiết.

Ở Triều Gia Long (1802 – 1819), có Thanh Đàm Tỷ kheo và Giác Đạo - Minh Chánh Thiền sư đã viết Pháp Hoa Ðề Cương. Trong phần Diệu Pháp Liên Hoa kinh Tông Chỉ Đề Cương Tự, Sa môn Thanh Nguyên, đã ghi bài kệ chứng minh cho Pháp Hoa Đề Cương như sau:

“Đề cương ngọc trụ diệu liên hoa

Năng sử ngô vi tích biện hòa

Nhị thập bát châu uyên nguyện hải

Đại thiên sa giới hội tâm cơ.

Năng nhân Hòa thượng minh tương thọ

Đa bảo Như lai mật hộ gia

Khiển ngã tâm lai minh tá sử

Tán dương Diệu pháp, tán Liên hoa”.

 

Nghĩa là:

“Diệu liên hoa đề cương kinh ngọc

Khiến ta thấy rõ báu Biện Hòa

Biển nguyện thâm sâu hai tám phẩm

Đại thiên sa giới hội tâm cơ.

Hòa thượng Năng nhân thầm thọ ký

Đa bảo Như lai mật gia hộ

Khiến rõ tâm ta từ đâu đến

Ngợi ca diệu pháp với Liên hoa”.

Và Sa môn Thanh Nguyên đã nói về kinh Pháp Hoa rằng: “Kinh Pháp Hoa là việc làm chân thực và duy nhất của chư Phật, là pháp môn chủ yếu của Bồ-tát, là pháp chân như bình đẳng của Như lai, do thương chúng sanh mà khai mở, chỉ bày, chứng ngộ và hội nhập. Lúc chư Phật diễn thuyết pháp này, thường chẳng báo trước. Khi chúng sanh tu tập thường xuyên đối với pháp này, thì sẽ được thọ ký quả vị giác ngộ tương lai”.

Và Sa môn Thanh Nguyên giải thích ý nghĩa Diệu Pháp và Liên Hoa như sau: “Diệu Pháp là huyền vi khó diễn bày và là pháp rộng lớn cao vời. Liên hoa là tại bùn bất nhiễm, hương thơm ngào ngạt. Diệu Pháp Liên Hoa, rộng lớn chứa hàm pháp giới, bao trùm các cõi nước của Đức Như Lai, nhiều như vi trần. Sáng tròn, chiếu khắp hà sa, Bát nhã, Bồ đề đều đầy đủ. Chư Tổ vì nghĩ đến chúng sanh, thương họ tha thiết, nên mới mở bày văn cú, giúp biết ngôn âm. Nhưng than ôi, chẳng khác nào xuống biển mò châu, đào non lấy ngọc!”. (Hoàng Triều Gia Long, thập bát niên, bát nguyệt cốc nhật = Triều Hoàng Đế Gia Long, năm thứ mười tám (1819), tháng 8, ngày lành).

Ở trong phần Tổng Tiêu Pháp Dụ Kinh Đề Mục của Pháp Hoa Đề Cương, Sa môn Thanh Đàm và Thiềớnư Minh Chánh đã giải thích đề kinh Pháp Hoa như sau: “Diệu Pháp là chỉ cho pháp chân thực. Pháp ấy chính là tâm thanh tịnh xưa nay. Tâm ấy xưa nay vốn không sanh, không diệt, không sạch, không nhớp, không thêm, không bớt, tại phiền não không loạn, tại trần lao không nhiễm. Vì vậy, gọi tâm ấy xưa nay thanh tịnh là vậy.

Lại nữa, tâm này là bản nguyên của chư Phật, là Phật tính của chúng sanh. Tròn đồng thái hư, lớn không bờ mé. Linh linh lặng lặng, suốt kim suốt nay. Yên yên lắng lắng, chính là không, chính là sắc. Tâm thức không thể phân biệt, nghĩ lường mà có thể biết được.

Đức Thế Tôn, muốn dùng một việc lớn duy nhất là đem tâm này mà trao cho Bồ-tát, tạo thành hạt nhân tâm địa, và làm căn bản cho tác nhân tu tập, về sau tu chứng mới có thể thành tựu địa vị của đạo quả giác ngộ. Vì vậy, gọi là Diệu pháp”. (Tổng Tiêu Pháp Dụ Kinh Đề Mục- Pháp Hoa Đề Cương – Việt Nam Phật Điển Tùng San Chi Tam).

Như vậy ta thấy, vào Triều Gia Long, kinh Pháp Hoa đã được giảng dạy và truyền bá rộng rãi trong những thành phần học Phật, tu Phật và họ đã thâm nhập diệu pháp một cách sâu xa.

Triều Minh Mạng (1820 – 1840), Ngài Tánh Thiên - Nhất Định (1784 – 1847), đã được vua Minh Mạng cung thỉnh làm Tăng Cang Linh Hựu Quán và chùa Giác Hoàng ở Đại nội và là vị Tổ khai sơn Tổ đình Từ Hiếu, Huế, vào thời Thiệu Trị, năm 1843, sau khi đã gởi thư đến vua Thiệu Trị (1840 – 1847), xin từ nhiệm chức vụ Tăng Cang của các chùa quốc gia, Ngài đã thọ trì đọc tụng miên mật kinh Pháp Hoa, đến nỗi Tương An Công – Miên Bửu hoàng tử thứ bảy con vua Minh Mạng vô cùng kính mến và có bài thơ tặng như sau:

 “Dạ tụng Pháp Hoa kinh

Chân tâm bạch luyện tinh

Phòng vô phiến trần nhập

Bích quải điểm đăng minh.

Tích hữu Uyên Minh thức

Tâm như Huệ Viễn thinh

Chúng nhân đồ ngột ngột

ên đắc thấu sinh sinh”.

Nghĩa là:

“Đêm tụng kinh Pháp Hoa

Chân tâm tinh luyện đa

Không còn vi trần hoặc

Vách treo ánh đèn pha.

Dấu tích Uyên Minh biết

Tâm đồng Huệ Viễn xưa

Người đời nhiều phiền lụy

Khó hiểu lẽ sinh ra”. (Đặc San Kỷ Niệm 150, Ngày Tổ Khai sơn chùa Từ Hiếu Viên tịch, ấn bản Pl 2541 – 1997).

Qua bài thơ của Tương An Công – Miên Bửu cũng đã giới thiệu cho ta biết rằng, Kinh Pháp Hoa không phải chỉ có ảnh hưởng ở trong từng lớp Tăng sĩ bấy giờ mà còn ảnh hưởng đến những giai từng quí tộc và trí thức của xã hội đương thời nữa.

Triều Tự Đức (1847 - 1883), có Ngài Pháp Liên dịch Kinh Pháp Hoa bằng thể thơ Lục bát, gọi là Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh, xong năm 1848 và in năm 1856.

Triều Thành Thái (1889 – 1907) và Khải Định (1916 – 1925), Ni trưởng Diên Trường, sinh năm 1863, con của cụ Hồ đắc Tuấn và bà Công nữ Thức Huấn, ở làng An truyền, Thừa Thiên, năm 36 tuổi đầu sư xuất gia với Ngài Hải Thiệu- Cương Kỷ chùa Từ Hiếu, sau đó đã được bổn sư cho thọ Sa di ni, với pháp danh Thanh Linh, tự Diên Trường. Bà tu tập rất tinh cần, nên đến năm Duy Tân thứ 4 ( 1910), được bổn sư cho thọ Tỷ kheo ni, Bồ-tát giới tại giới đàn Quảng nam, do Hòa thượng Vĩnh Gia làm đàn đầu.

Bà là vị Tỷ kheo ni đầu tiên trên đất Thuận Hóa vàoTriều Duy Tân. Năm Ất sữu (1925), bà đã cung thỉnh Ngài Tâm Tịnh chùa Tây Thiên và Ngài Huệ Pháp chùa Thiên Hưng, đến chùa Trúc Lâm, Huế, để chứng minh lễ khai kinh cho bà tụng kinh Pháp Hoa, tụng xong bộ kinh Pháp Hoa đúng ngày rằm tháng tư, bà làm lễ tạ ơn hai Ngài chứng minh và Đại chúng xong là an nhiên thị tịch.

Việc Ni trưởng Thanh Linh - Diên Trường cung thỉnh Hòa thượng Tâm Tịnh và Huệ Pháp chứng minh lễ khai kinh Pháp Hoa cho bà thọ trì, trước khi viên tịch, đã giúp cho ta biết rằng, kinh Pháp Hoa vào thời kỳ này không phải chỉ là học thuật, hay nghiên cứu mà đã trở thành tín ngưỡng và cuộc sống tâm linh cho Tăng Ni và Phật tử ở thời kỳ này.

Trường Phật học đầu tiên ở trên đất Thuận Hóa vào các Triều Thành Thái (1889 – 1907); Duy Tân (1907 – 1916); Khải Định (1916 – 1925) là trường Phật học Thiên Hưng, do Ngài Huệ Pháp làm chủ giảng, gồm các môn học như: Luật Tứ Phần, Giới kinh Phạm võng, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa,… và Ma ha Chỉ Quán của Trí Khải ( 531 – 597).

Triều Bảo Đại (1925 – 1945), các Hội Phật Học Nam, Trung và Bắc ra đời vào những năm đầu Thập niên ba mươi, để chấn hưng Phật giáo, các trường Phật học được mở ra để đào tạo Tăng tài.

Năm 1934, Kinh Pháp Hoa đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Đại học Phật giáo năm thứ tư, tại trường An nam Phật học Trung Kỳ, cơ sở đặt tại chùa Trúc Lâm và kinh Pháp Hoa Huyền Nghĩa, kinh Pháp Hoa Khoa Chú được đưa vào chương trình hậu đại học cho các nghiên cứu sinh vào năm thứ ba.

Năm 1944, kinh Pháp Hoa Văn Cú được đưa vào giáo trình dạy năm Cao Đẳng thứ hai, tại Đại Tòng Lâm Kim Sơn ở làng Lưu Bảo, Hương Trà, Thừa Thiên.

Vào ngày 10, tháng 4, Bảo Đại năm thứ 9 (1933), Hòa thượng Thanh Hanh, chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Kỳ đã viết lời dẫn tựa của Pháp Hoa Đề Cương để khắc in.

Trong lời dẫn tựa, Hòa thượng Thanh Hanh viết về kinh Pháp Hoa như sau: “Chư Phật xuất hiện trong đời, vì một đại sự nhân duyên là muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập sự thấy biết của Phật. Nhưng đoạn kinh trên cũng là cương lĩnh chủ yếu của toàn bộ, các nhà chú giải lấy yếu chỉ này để giải thích rộng rãi kinh này.

Do đó, biết rằng chư Phật nói ba câu hỏi, chín ví dụ, hội tam thừa về nhất thừa, dẫn quyền thừa vào thật đạo là để khai thị, khiến chúng sanh biết được mặt mũi xưa nay, mà ngộ nhập cái thấy, cái biết của Phật.

Quán xem thời Phật còn tại thế, hàng Thanh văn nghe lần thứ hai liền giác ngộ, liền được Đức Phật thọ ký, cho đến tất cả chúng sanh nghe một câu, một bài kệ của kinh này, khởi một niệm tùy hỷ, đức Phật liền huyền ký cho họ. Đó là một đại sự nhân duyên rốt ráo vậy”.

Qua lời tựa ấy, ta biết rằng, kinh Pháp Hoa ở thời kỳ này, các Tăng sĩ đã thâm nhập và hành trì hết sức uyên áo.

Ở Bắc Kỳ, năm 1934, Hội Phật Giáo Bắc Kỳ được thành lập, kinh Pháp Hoa đã được đưa vào trong giáo trình Phật học, để giảng dạy cho học Tăng Trung học năm thứ nhất, Pháp Hoa Tri Âm năm thứ hai.

Năm 1937, Cư sĩ Đoàn Trung Còn đã dịch kinh Pháp Hoa từ bản tiếng Pháp Le Lotus de la Bonne Loi của Học sĩ Hàn Lâm Viện E. Burnouf. Bản Pháp ngữ này là dịch từ bản Phạn ngữ của Népal phát hiện năm 1925.

Năm 1943, Pháp Hoa Đề Cương của Thanh Đàm, do Hội Bắc kỳ Phật Giáo khắc in và ấn hành.

Năm 1964, kinh Pháp Hoa Huyền Nghĩa do Chánh Trí – Mai Thọ Truyền dịch, giảng và ấn hành.

Vào những năm 1977 đến 1980, kinh Pháp Hoa Giảng Lục của Thái Hư Đại Sư đã được Hòa thượng Thích Đôn Hậu giảng dạy tại Phật Học Viện Báo Quốc, Huế và kinh này cũng đã được Hòa thượng Thích Trí Nghiêm dịch ra tiếng Việt và ấn hành trước 1975.

Trước 1975, kinh Pháp Hoa bản của Ngài Cưu Ma La Thập đã được Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Sư bà Thể Quán dịch ra Việt văn. Bản dịch của Hòa thượng Trí Tịnh được rất nhiều Tăng Ni và Phật tử biết đến để nghiên cứu và đọc tụng.

Năm 1983, kinh Pháp Hoa đã được Hòa thượng Thích Trí Thủ và Hòa thượng Thích Thiện Siêu giảng dạy tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn.

Hòa thượng Thích Thanh Kiểm đã viết Đại ý Kinh Pháp Hoa và Thành Hội PG T.P Hồ Chí Minh đã ấn hành 1990.

Bản dịch Pháp Hoa và lược giải của Hòa thượng Thích Trí Quang, do Nhà xuất bản T.P Hồ Chí Minh 1998, văn phong hết sức sáng sủa, cô đọng, sắc bén, lột gần hết ý nghĩa của các thuật ngữ và quan trọng hơn hết là có toát yếu từng phẩm.

Hòa thượng Thích Trí Thủ rất tâm đắc phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh ở kinh Pháp Hoa. Ngài đã dịch phẩm này và đã lưu hành trước năm 1975.

Năm 2000, Hòa thượng Tịnh Hạnh, Chủ trương Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, do Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, đã xuất bản đầy đủ ba bản Việt dịch kinh Pháp Hoa từ bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của Ngài La Thập; bản Chánh Pháp Hoa Kinh của Ngài Trúc Pháp Hộ và bản Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của Ngài Xà Na Quật Đa và Cấp Đa ở Tập 34.

Bản Pháp Hoa của Ngài La Thập ở Việt Nam đã có rất nhiều bản dịch Việt, nhưng bản Pháp Hoa của Ngài Trúc Pháp Hộ và Xà Na Quật Đa, Cấp Đa là bản dịch Việt đầu tiên được ấn hành ở trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

Ở trong Đại Tạng này, bản Tát Đàm Phân Đà Lợi Kinh (Kinh Pháp Hoa), số ký hiệu 265, ở Đại Chính Tân Tu, mất tên dịch giả cũng đã được dịch ra Việt văn. Pháp Hoa Tam Muội Kinh, do Trí Nghiêm người xứ Lương Châu dịch vào đời Tống, số ký hiệu 269, ở Đại Chính Tân Tu cũng đã được dịch ra Việt văn.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu đã Lược Giải kinh Pháp Hoa và sau khi Ngài viên tịch năm 2001, kinh lại được Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế, ấn hành năm 2003.

Hòa thượng Thích Thanh Từ đã viết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, Nhà xb Tôn Giáo 2003.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã giảng kinh Pháp Hoa ở Đạo Tràng Làng Mai năm 1991, 1992 và tại Tu viện Kim Sơn ở Hoa Kỳ 1993, được ghi chép lại với tên Sen nở trời phương ngoại, lá bối xb 19?

Hòa thượng Trí Quảng ở chùa Ấn Quang Sài gòn, đã thành lập Đạo tràng Pháp Hoa, sau khi du học ở Nhật về năm 1971, và đã lược giải kinh Pháp Hoa, xuất bản năm 1999.

Hòa thượng Thông Bửu, Trú trì chùa Quán Thế Âm, Sài gòn cũng đã thành lập Đạo tràng Pháp Hoa, và thường giảng dạy kinh Pháp Hoa vào ngày Chủ nhật trong thập niên 80, 90.

Hòa thượng Nhật Quang đã dịch Pháp Hoa Đề Cương của Thiền sư Minh Chánh, đã được Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, ấn hành 1999.

Hòa thượng Trí Tịnh đã dịch và giảng Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa của Đại sư Hám Sơn – Đức Thanh, và đã được Nhà xuất bản Tôn giáo, ấn hành 2007.

Các Hòa thượng Từ Thông, Chơn Thiện,… cũng như những bậc cao đức khác trong thời hiện đại cũng đã hành trì kinh Pháp Hoa và đã có chú giảng kinh Pháp Hoa, góp phần to lớn vào nền Văn học Phật giáo nước nhà.

Như vậy, ta thấy tại Việt Nam, từ thời Bảo Đại cho đến nay 2008, kinh Pháp Hoa vào những thời kỳ này, không những được chư Tăng Ni ở các Tu viên, Tự viện, Phật học viện các Đạo Tràng Pháp Hoa được thành lập khắp các miền Trung Nam Bắc để tu tập, thọ trì, đọc tụng và diễn giảng, in ấn kinh để truyền bá một cách rộng rãi.

Ở Việt Nam suốt cả chiều dài lịch sử phát triển, kinh Pháp Hoa không trở thành một Tông phái đặc thù như Trung Hoa vào thời Trí Khải (531 – 579) và Nhật Bản vào thời Nhật Liên (Nichiren 1222 – 1282), nhưng kinh đã có một ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm linh của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam.

Việc thiêu thân cúng dường của Ngài Đàm Hoằng, năm 455 TL, tại chùa Tiên Sơn, Giao Chỉ, nay là núi Lan Kha, tỉnh Bắc Ninh (Lê Mạnh Thát, LSPGVN 1, tr758, nxb Thuận Hóa 1999). Ngài Thiệt Thành – Liễu Đạt hay còn gọi là Hòa thượng Liên Hoa, đã tự thiêu năm 1825, tại chùa Đại Giác, ở phố Cù lao, tỉnh Biên Hòa (Nguyễn Hiền Đức, LSPG Đàng Trong chương 11, tr 231 – 232, nxb T.P 1995). Ngài Tuệ Pháp (1871 – 1927), ở chùa Thiên Hưng, Huế ở năm 1927; Ngài Quảng Đức và các vị Thánh tử đạo khác như: Tiêu Diêu, Thanh Tuệ, Nguyên Hương, Quảng Hương, Thiện Mỹ, Ni cô Diệu Quang,… vào năm 1963, và nhiều vị khác mà lịch sử Phật Giáo Việt Nam chưa cơ hội để ghi lại, đều đã nói lên thực hành hạnh nguyện theo Dược Vương Bồ-tát của kinh Pháp Hoa.

Ở kinh Pháp Hoa, việc đốt thân cúng dường của Bồ-tát Dược Vương có một ý nghĩa hết sức thâm diệu, đó là dâng hiến toàn vẹn pháp do Bồ-tát chứng ngộ từ đời sống Pháp Hoa lên cúng dường chư Phật, để biểu lộ lòng biết ơn sâu xa đức giáo hóa bằng Pháp Hoa của các Ngài, cũng như giáo pháp thâm diệu được chứa đựng ở trong kinh

Có những vị đã lập hạnh kính lễ kinh Pháp Hoa nhất tự nhất bái, như Hòa thượng Huệ Minh (1861 – 1939), trú trì Tổ đình Từ Hiếu, Huế; Hòa thượng Đức Phương, trú trì chùa Tra Am, Huế. Và có nhưng vị mỗi ngày đều thọ trì kinh Pháp Hoa như Ni trưởng Thích Nữ Diệu Trí, Trú trì chùa Diệu Nghiêm, Huế; Ni trưởng Thích nữ Diệu Lý, Trú trì chùa Quang Minh, Đã Nẵng; và Cố Ni Trưởng Thích nữ Chân Nguyên, Trú trì chùa Phò Quang, Huế và có rất nhiều vị Tăng Ni cư sĩ khác nữa, ở đây không thể dẫn chứng hết.

Cố Ni Trưởng Thích Nữ Chân Nguyên (1923 – 2004), mỗi khi thấy thân thể khiếm an, hay chuyện bất ổn xẩy ra ở trong gia tộc, hoặc bổn tự đều cung thỉnh chúng Tăng thọ trì kinh Pháp Hoa và sau đó mọi việc đều được bình ổn. Ni trưởng do hành trì kinh Pháp Hoa mà đã dự tri thời chí, dặn Ni chúng ngày này không ai được đi đâu, rồi lên chánh điện trì kinh và chiều viên tịch rất nhẹ nhàng, đêm ấy trong trượng thất an trí thi thể của Ni trưởng tự tỏa ra mùi thơm của hoa sen, bấy giờ nét mặt của Ni trưởng rất đẹp và thân thể rất mềm mại.

Chắc chắn, kinh Pháp Hoa đã có những ảnh hưởng nhất định đối với tín ngưỡng cũng như đời sống đạo đức, văn hóa của Tăng Ni Phật tử Việt Nam xuyên suốt qua các thời đại mà lịch sử Phật giáo đã đi qua, cũng như trong hiện tại và sẽ tiếp tục cả tương lai.

Kinh Pháp Hoa đối với người Tây phương, vào thế kỷ 19, vị công sứ người Anh tên Hamilton đã tìm thấy kinh Pháp Hoa bằng tiếng Sanskrit (Phạn), viết trên Lá bối, thờ trong một động đá ở Nepal.

Sao đó, có 19 bản kinh Pháp Hoa chép tay bằng tiếng Sanskrit đã được phái đoàn người Nhật, Anh, Pháp, Đức nghiên cứu tìm thấy.

Sau đó cả người Nhật và Anh đã yểm trợ cho Hội Nghiên cứu kinh Pháp Hoa, bốn phái đoàn gồm Nhật, Anh, Đức và Nga đã đến vùng Trung Á, nghiên cứu và tìm kiếm kinh Pháp Hoa, họ đã phát hiện ở vùng Kotan có sáu bộ kinh Pháp Hoa bằng tiếng sanskrit và thêm một bộ Pháp Hoa Sanskrit ở Kucha (Qui tư quê hương của Ngài La Thập).

Năm 1932, một bộ kinh Pháp Hoa cổ nhất được tìm thấy ở kashmir nối liền với Afganistan, ta thường gọi là Pháp Hoa Gilgit. Bộ kinh này gồm có 1/3 chữ Magadhi, loại chữ cổ nhất của nước Ma Kiệt Đà, ngôn ngữ đức Phật thường sử dụng để thuyết pháp. Và 2/3 ngôn ngữ Sanskrit.

Kinh Pháp Hoa dịch ra tiếng Anh, hiện nay có ít nhất là năm bản:

v The Lotus of the True Law:

Do Kern, Nhà Phật học Hòa Lan dịch từ bản Phạn văn Népal, năm 1880, gồm có 27 phẩm, hiện có ở trong The Sacred of the East.

v The Lotus Scripture Essence:

Bộ này là lược dịch từ bản chữ Hán của Ngài La Thập, gồm có 28 phẩm, hiện nằm trong bộ The New Test Ament of High Buddhism của Lichard, xuất bản năm 1900.

v The Lotus of the Wonderful Law:

Do hai nhà học giả Soothill và Kato dịch, gồm có 28 phẩm, xuất bản tại London năm 1930.

v The Lotus Sutra:

Do Senchu Muarano dịch từ bản của Ngài La Thập, Nhật Liên Tông tại Nhật xuất bản 1974.

v The Lotus Sutra:

Do Burton Watson dịch từ bản Hán của Ngài La Thập, xuất bản ?

Kinh Pháp Hoa dịch ra tiếng Pháp, hiện nay chỉ thấy có một bản với tên: Le Lotus De La Bonne Loi, do Hàn Lâm Học Sĩ E. Burnouf dịch từ bộ Phạn ngữ Nespal vào năm 1925.

Bản dịch này đã được Cư sĩ Đoàn Trung Còn dịch sang Việt văn năm 1937.

Ngoài ra kinh Pháp Hoa cũng đã được dịch sang tiếng Tây tạng vào thế kỷ thứ 8, hiện có ở trong bộ Đại tạng Shar Thàn, Sde Dge, Bắc Kinh,… Kinh Pháp Hoa cũng đã được dịch sang tiếng Triều Tiên, năm 1463, từ bản Hán của La Thập, do sắc lệnh của vua Lý Thế Tổ Triều Tiên. Và kinh Pháp Hoa cũng đã dịch ra tiếng Mãn Châu, từ bản Hán dịch của Ngài La Thập, hiện nằm trong bộ Ngự dịch của Đại tạng kinh Càn Long đời Thanh.

Như vậy, ta thấy lịch sử truyền thừa và phát triển của kinh Pháp Hoa rất xuyên suốt và sâu rộng trong mọi thành phần của xã hội qua nhiều ngôn ngữ của nhiều quốc gia trên thế giới, không những làm nền tảng cho tín ngưỡng tâm linh, đạo đức vươn cao của nhân sinh, mà còn là nguồn cảm hứng để cho các học giả nghiên cứu trước tác, sáng tác, tạo nên những sinh lực văn học, nghệ thuật, đóng góp vào gia tài văn hóa và học thuật của nhân loại ngày nay.

Thích Thái Hòa

 

1 Kinh Ariyapariyesena

2 Pháp Hoa Kinh – Phương Tiện Phẩm, tr 10a, Đại Chính 9.

3 Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân kinh, Tạp A Hàm, tr 504, Đại chính 2

4 Theo thư tịch Bắc truyền, thì Ngài Ca Diếp chủ tọa Hội nghị. Nhưng theo thư tịch Nam truyền, thì Ngài Ưu ba li chủ tọa Hội nghị.

5 Có tư liệu cho rằng, Đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, không xảy ra dưới thời vua A`soka (A Dục), vì thời này chư Tăng phân hóa, mà hội nghị xảy ra tại đảo quốc Tích Lan dưới Triều vua nước ấy, trùng tên với A`soka (A Dục).

6 Wintenitz, p 304, of his History vol II – P.L Vaidya – Introduction – Buddhist Sanskrit texts, No 6.

7 Translator `s Introduction – The Lotus Sutra.

8 Đại Chính 26, tr 01- 20.

9 Ngụy Thư – Thích Lão Chí.

10 Hậu Hán Kỷ - Phật Tổ Thống Kỷ.

11 Tứ Thập Nhị Chương Kinh, tr 722, Đại Chính 17.