Nhân đọc tập truyện ngắn của Vĩnh Nguyên: "Truyện kể của Người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni"
Bìa tập truyện của Vĩnh Nguyên
Theo một số nhà lý luận phê bình thì truyện (gồm truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết) là một thể loại văn học đòi hỏi người viết có khả năng xây dựng hình tượng nhân vật vừa cụ thể vừa khái quát, chủ yếu thông qua hư cấu, tưởng tượng. Ký (gồm ký sự, ghi chép, bút ký, hồi ký…) là thể loại văn học trung thành với sự thực, có hư cấu chút ít (chủ yếu thông qua sự sắp xếp các tình tiết một cách nghệ thuật). Đó là lý thuyết, song trong thực tế không ít tác phẩm pha trộn giữa truyện và ký. Truyện ngắn của Vĩnh Nguyên là một trong những tác phẩm như thế..
Ngay cái tiêu đề tập sách Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni đã mang tính truyện. Không những vậy nó còn mang hơi hướng của sách kiếm hiệp từng ăn khách một thời. Người đọc tò mò muốn biết: Ai là người đánh cắp tượng Phật? Tượng Phật sao lại đánh cắp? Đánh cắp bằng cách nào? Hậu quả ra sao? Và nhân vật xưng “tôi” lần lượt dẫn dắt người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cái tên thị xã Đồng Giàu không có trên bản đồ Việt Nam. Chùa Đồng Giàu cũng không có tên trong hàng nghìn ngôi chùa ở trong Nam, ngoài Bắc. Các chi tiết: ăn cắp tượng Phật, đốt tượng, cất giấu tượng… qua lời kể của anh Tỵ (nhân vật chính) hết sức cuốn hút.
Nếu không có trí tưởng tượng phong phú, làm sao nhà thơ Vĩnh Nguyên có thể tái hiện lại một cách cụ thể như thế này: “Tôi đã cầm ngọn lửa. Họ đẩy tôi đến chỗ các Ngài khi các Ngài đã được chất lên như một đống củi gộc đã được tưới dầu! Giờ các Ngài đang thành những thỏi lửa…”. Câu chuyện gợi lại một thời nông nổi và ấu trĩ đối với vấn đề tôn giáo. Họ cho rằng: “Phật pháp là duy tâm cần bãi bỏ”. Họ biến chùa Đồng Giàu rất đỗi tôn nghiêm thành kho chứa phân, vôi, xi-măng “chất đầy ba gian chính điện thờ”. Bao nhiêu tượng Phật trong chùa đều lôi ra đốt sạch. Bằng sự kính trọng, tình yêu thương, lòng dũng cảm, trí thông minh của mình, anh Tỵ đã may mắn cứu được một Ngài.
Truyện có một vài chi tiết khá đắt, như chi tiết ở trong chùa mà lại không có lấy một chỗ để cắm hương, chị cả “đành phải cắm đại lên đống phân đạm”. Hay chi tiết “quan xã” miệng thì sa sả khuyên người dân không nên mê tín, dị đoan nhưng lại sợ các Ngài “bắt” nên không ai dám tự tay châm lửa đốt các pho tượng Phật, phải tìm cách chuốc rượu anh Tỵ.
Khác với Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, truyện Hai ông Kẻ Khoán hai làng giáp ranh thì chất ký có phần lấn át chất truyện. Các tên làng Vĩnh Tuy, Văn La, Trung Trinh thuộc tổng Long Đại đều có ghi trong sử sách, xã chí địa phương. Tên một số nhân vật cũng là tên thật ngoài đời (như anh Hà Văn Cách, bà Hương Lộc, anh Đỗ Ngộ…). Nếu lược bỏ đi hai ông Kẻ Khoán (kẻ coi đồng) của hai làng Viễn Tuy (sau này đổi thành Vĩnh Tuy) và Trung Trinh thì truyện sẽ trở thành một thiên phóng sự về việc tranh giành, lấn chiếm đất đai từ xưa đến nay. Đây là đề tài “nóng” mang tính thời sự.
Từ lời đồn đại nửa hư, nửa thực về ngôi Mả Ngài chôn chung hai ông Kẻ Khoán, nhà thơ Vĩnh Nguyên đã hư cấu thành một câu chuyện mang ít nhiều yếu tố huyền ảo đan xen vào câu chuyện có thực diễn ra ngay trên quê hương tác giả. Cái giai thoại hai ông Kẻ Khoán chỉ vì bảo vệ phần đất của làng mình mà đánh nhau đến chết, được tác giả thuật lại đầy kịch tính: “Bên cắn cứ cắn không nhả. Bên bóp cứ bóp không rời. Đôi chân của họ đã bện vào nhau như là bốn con rắn”. Khi người hai làng hay tin chạy đến thì hai ông tắt thở từ lúc nào. Họ phun hết mấy can rượu cố tách hai ông ra nhưng không tài nào tách được: “Thân hai ông cứng như đá”. “Tay chân hai ông cuộn lấy nhau chắc như đinh đóng”. Cuối cùng hai làng quyết định xây cho hai ông một nấm mộ chung. Chuyện tranh giành, lấn chiếm đất đai của hai làng cũng chấm dứt từ đó.
Bên cạnh nhân vật hai ông Kẻ Khoán đã trở thành giai thoại là những con người thực. Nhân vật người điên có lai lịch hẳn hoi: “Ông điên sinh vào khoảng năm 1925, tên thật là Đỗ Ngộ. Ông là con ông Đỗ Bui. Nghe đồn từ nhỏ Ngộ học rất giỏi. Ngộ nói được tiếng Pháp”. Thời đó, những người biết tiếng Pháp như Đỗ Ngộ đã được xem là “trí thức” của làng, của tổng. Nhưng Ngộ không được làm thông ngôn. Sau một cơn sốt cao, Ngộ bị điên. Ngộ “xé áo quần, tồng ngồng chạy khắp nơi, miệng vừa la vừa thét: Giết! Giết! Giết nó!”. Ngộ “đè khúc chuối xuống ruộng, hai tay đánh vào cây chuối tới tấp. Mắt trợn trừng. Miệng kêu ặc ặc”. Ngộ khiến dân làng nhớ đến hình ảnh hai ông Kẻ Khoán đánh nhau đến chết ngày xưa… Người làng đồn Ngộ bị hai ông Kẻ Khoán “phạt”.
Nhân vật Ngộ góp phần làm cho câu chuyện càng thêm ly kỳ. Với lối kết cấu đan xen, xâu chuỗi như vậy, với những tình tiết hư hư thực thực như vậy, tác giả đã sáng tạo nên một thiên truyện ký đặc biệt ấn tượng.
Vuốt mắt cho em và Chị Hộ là hai truyện ngắn được Vĩnh Nguyên viết theo lối tự sự gia đình. Hai nhân vật chính: Phú (trong Vuốt mắt cho em) và chị Hộ (trong Chị Hộ) đều là người thân của tác giả (chị Hộ là chị cả, Phú là em gái út). Cuộc đời, tính cách của Phú và chị Hộ hiện lên một cách hết sức chân thật. Những biến động đất nước ảnh hưởng trực tiếp đến quê hương, gia đình tác giả. Chuyện thời cải cách ruộng đất, chuyện làm ăn hợp tác xã, chuyện đánh phá của giặc Mỹ đều được Vĩnh Nguyên tái hiện lại. Lời ăn, tiếng nói, phong tục, tập quán của người dân quê Quảng Ninh, Quảng Bình được Vĩnh Nguyên đưa vào truyện một cách tự nhiên.
Một nhân vật được nhắc nhiều trong hai thiên tự sự gia đình là “thầy tôi”. “Thầy tôi” chính là thân sinh của nhà thơ. Chuyện “thầy tôi” nối dõi ông nội theo nghiệp tu hành, chuyện “thầy tôi” vào tu nghiệp ở Huế; chuyện “thầy tôi” trụ trì ở chùa Đồng Giàu, trụ trì ở chùa Phước Huệ và lập chùa Bảo Thiên ở vườn nhà; chuyện “thầy tôi” tham gia công tác cách mạng (có người làm chứng) nhưng gia đình vẫn chưa được công nhận là gia đình có công… Nhờ những năm tháng tuổi thơ sống bên “thầy tôi” mà Vĩnh Nguyên khá am tường tư tưởng, nghi lễ, kinh kệ, ngôn ngữ Phật giáo. Điều này góp phần tạo nên nét riêng trong những trang viết của anh.
Mai Văn Hoan