Khôi phục chùa Linh Quang
Ngày 15- 4- 2016. Sư cô Thích Giác Ân trụ trì chùa Linh Quang, thôn Bùi Xá, xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, mời chúng tôi về thăm Linh Quang Tự vừa được khôi phục sau 50 năm bị tàn phá. Và dự Lễ đón nhận Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia hát Trống quân làng Bùi Xá.
Chùa Linh Quang, ngự giữa cánh đồng lúa mênh mông, long lanh mắt ướt gái quê Thuận Thành, trong thơ Hoàng Cầm.
Sư cô Giác Ân đón chúng tôi trong cảnh chùa quê ấm áp. Vườn chùa hoa, lá xum xuê, rau, quả, củ, rau thơm tinh khiết. Đồng lúa Xuân xanh mát, bao bọc ngôi chùa.
Chúng tôi mê đắm ngắm cây hoa vườn, bao quanh ngôi Tam Bảo đang được khôi phục. Những bông hoa Hồng thơm lối cỏ. Hoa cúc vàng, tím, trắng, xanh. Hoa mộc thơm thanh tịnh. Hoa chua me đất. Hoa mướp, hoa bầu bí. Hoa cà chua. Giàn phong lan đơm nụ, nở hoa rừng. Chậu Mai Vàng Nam Bộ còn tươi những bông Mai Tết… Sư cô Giác Ân yêu cỏ cây, chăm trồng, tưới bón sớm hôm.
Vườn chùa trồng đủ loại cây quả của làng. Sấu, ổi, nhãn, bưởi, na, xoài, hồng xiêm, chanh cam, cây bưởi da cam Nam Bộ… Những bụi chuối bao quanh vườn, ngăn vườn chùa với những ruộng lúa liền kề.
Chúng tôi lễ Tam Bảo vừa được dân làng Bùi Xá bảo nhau đóng góp phục dựng, sau 50 năm bị san lấp làm trang trại. Ngày 3- 10- 2012. Ngôi chùa Linh Quang khánh thành, trong niềm hoan hỷ của dân làng và Tăng, Ni, Phật tử gần xa.
Mái chùa che chở hồn làng Bùi Xá
Sư cô Giác Ân mời chúng tôi dùng cơm chay cô nấu những món ăn từ rau lá, quả vườn chùa. Quả bầu luộc chấm tương ngọt ngào tình mẹ. Sư cô trầm tĩnh, nhẹ nhàng kể chuyện dân làng phục dựng ngôi chùa Linh Quang, mà cô có cơ duyên được trụ trì.
Dân làng không quên. Chùa Linh Quang làng Bùi Xá nhiều đời ngân nga chuông sớm, chuông chiều. Theo bia và di chỉ, chùa Linh Quang dựng vào thời Lê Thánh Tông. Là một trong số hơn 100 ngôi chùa cổ thuộc xứ Kinh Bắc. Là một trong 188 di tích cổ của 705 làng Việt cổ.
Khoảng năm 1961- 1962. Nhằm bài trừ mê tín, dị đoan, chùa Linh Quang đã bị phá, làm trại sản xuất nông nghiệp. Toàn bộ tượng Phật, đồ thờ của chùa chuyển ra đình làng. Một số người mang di sản của chùa về nhà, gặp nhiều chuyện rắc rối, phải tự mang ra đình.
Trên đất nền chùa Linh Quang, hợp tác xã trồng cây, cây chết. Nuôi lợn, gà, bò… chúng đều chết. Cỏ dại cũng lụn bại không thể mọc. Dân làng Bùi Xá xao xác nhớ ngôi chùa làng đã mất. Những ai phải trực tiếp phá chùa, đều gặp tai ương, ốm đau, buồn bã.
Xung quanh chùa Linh Quang ngày xưa có mấy cái giếng cổ rất rộng và rất sâu. Nước trong, ngọt bốn mùa. Có giếng được gọi là Giếng Tu. Có giếng dân làng dùng làm nước ăn, tắm, giặt. Nay các giếng đó đều bị lấp, trồng lúa.
Một giếng trước cổng Tam Quan đang xây dựng, còn một nửa. Một nửa giếng đó, nay đầy nước. Nhiều lần dân làng lấp nửa giếng này, đều sinh chuyện không lành. Họ không dám lấp nữa.
Mới đây, dân làng kháo nhau rằng có một vài người khách nước ngoài du lịch, lặng lẽ về làng Bùi Xá, ra cánh đồng chùa Linh Quang tìm giếng cổ. Không biết họ tìm giếng cổ để làm gì? Nhưng hồn làng quê Bùi Xá linh thiêng, không để “khách lạ” được chạm đến mạch nguồn Đất Việt.
Hai ngôi tháp mới xây của chùa Linh Quang
Sư Giác Ân vào chùa tu học từ tuổi mười lăm, như lời hẹn tiền kiếp. Sư cô theo các bậc thầy tu khổ hạnh. Hơn 20 năm vừa tu vừa học. Tốt nghiệp đại học Phật giáo, thạc sĩ Khoa học Nhân Văn, nay đang nghiên cứu TS Phật học. Sư cô là Phó Văn phòng thường trực Ban Văn hóa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Công việc bộn bề. Sư cô đi lại khắp nơi năng động, bằng xe máy, vẫn giữ phong độ bình an, thanh tịnh.
Hơn một năm, được trụ trì chùa Linh Quang đang phục dựng. Sư cô sớm tối chăm lo việc chùa. Thành lập đoàn Phật tử chùa làng. Tối nào bà con cũng ra chùa tụng kinh, học Phật Pháp. Tiếng tụng kinh Pháp Hoa, Phổ Môn, Dược Sư, tiếng mõ, tiếng chuông… vang ấm làng thôn.
Sư cô làm các hạng mục công trình phục dựng chùa Linh Quang đúng Phật Pháp. Chầm chậm. Cơ duyên Phật tử gần xa giúp, làm dần. Hằng ngày, dân làng Bùi Xá thay nhau ra chăm trồng cây vườn chùa.
Tri ân các bậc sư Tổ chùa Linh Quang. Sư cô Giác Ân tìm di chỉ, hài cốt của các cụ. Sư cô đã tìm thấy hài cốt của cụ Tổ Ni Thích Đàm Trang, và cụ Tổ Tăng Thích Thanh Di. Xây hai tháp cho hai cụ trong vườn chùa Linh Quang.
Việc tìm hài cốt của Tổ Ni, có con cháu cụ hiện ở làng Bùi Xá ghi nhớ, chỉ dẫn. Còn cụ Tổ Tăng. Không biết hài cốt của cụ nơi nào?
Sư cô khấn nguyện xin cụ Tổ Tăng “Khi nào tìm được hài cốt của cụ, con sẽ xây tháp cho cụ sau”.
Linh thiêng. Ngày bốc mộ cụ Tổ Ni, chuyển vào tháp mới xây, bỗng phát lộ bộ hài cốt của cụ Tổ Tăng, đặt bên cạnh. Thì ra, khi phá chùa, dân làng đã thành kính đặt hài cốt hai cụ ở một góc vườn chùa Linh Quang.
Dân làng Bùi Xá hoan hỷ bởi sự linh hiện bất ngờ ấy. Họ lập tức góp tiền, góp công, xây ngay ngôi tháp chuyển cụ Tổ Tăng cạnh ngôi tháp cụ Tổ Ni, nơi một nửa cái giếng chùa bị lấp. Còn lại nửa giếng đầy nước không ai dám lấp.
Dân gian Việt ngợi ca, giếng thiêng, ao thiêng, đất thiêng, cây lá, hoa quả thiêng, chùa làng thiêng… giữ mảnh hồn dân tộc là như vậy..
Di sản hát Trống quân làng Bùi Xá
Sự vui sống làm ăn, sinh hoạt văn hóa, nét tài hoa của dân làng Việt Nam đều gắn với ngôi chùa làng. Đất vua chùa làng. Sư cô Giác Ân gần gũi với Phật tử, tham dự các hoạt động Văn hóa, Xã hội, Kinh tế của dân làng Bùi Xá.
Làng cổ Bùi Xá, xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh có Nghệ thuật hát Trống quân cổ truyền của xứ Kinh Bắc được dân làng hát đến ngày nay.
Sư cô Giác Ân mời Phật tử khắp nơi về dự Lễ đón nhận Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia hát Trống quân làng Bùi Xá.
Những cặp vợ chồng nghệ nhân hát Trống quân làng Bùi Xá, nhớ da diết tiếng hát Trống quân, cho họ nên vợ chồng. Mê tiếng hát của nhau, mà gắn bó yêu thương nhau đến đầu bạc răng long. Hơn 20 năm qua, họ thành lập Câu Lạc Bộ hát Trống quân, cùng nhau hát như thời trẻ, và vào trường học, dạy con cháu hát.
Họ làm sống lại di sản hát Trống quân của làng Bùi. Ngày xưa đêm đêm, đám hát trống quân trong làng Bùi Xá mời gọi trai gái khắp vùng cùng say mê. Hát trống quân không cầu kỳ như quan họ. Lời hát ngẫu hứng nôm na điệu thơ lục bát. Tiếng hát trống quân thâu đêm tới sáng, râm ran từ trong làng ra đến ngoài đồng.
Nhạc cụ duy nhất của hát Trống quân là dùng Trống đất để giữ nhịp. Trống đất được làm bằng hai cọc tre cao khoảng 1 mét và một sợi dây thừng gác ngang, giữa sợi dây buộc một thanh tre vuông góc, một đầu chống lên miếng ván mỏng đặt hờ trên một hố đất, có bán kính bằng miệng chum, bên trong sâu đầy vỏ ốc.
Khi hát Trông quân, nam nữ giao duyên cùng cây vườn, sân đình chùa, ánh trăng khuya, với Trống đất độc đáo. Họ hát đối đáp, bên nào hát dứt câu thì đánh vào phần dây nối với trống. Không đánh vào trống. Âm thanh êm dịu, hiền hòa như giục phe bên kia họa lại.Hát Trống quân làng Bùi Xá có từ thế kỷ thứ XIII dưới triều Trần. Hát Trống quân Bùi Xá cùng với một số gánh hát như Bá Đạt (Vĩnh Phú), Dạ Trạch (Hưng Yên) nổi tiếng khắp kinh thành Thăng Long, được vua Trùng Quang đời Trần mời vào cung hát cho vua nghe.
Theo ông Lê Bá Bạo, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Trống quân Bùi Xá. Những nghệ nhân Bùi Xá đã sáng tạo khi đưa Trống quân dân gian lên sân khấu. Ngày nay, cách làm trống không còn cầu kỳ nữa chỉ gồm một thanh gỗ nằm ngang, hai bên có hai cọc, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng đối đáp. Hai cọc được nối với nhau bằng sợi dây thép, chính giữa sợi dây đặt một cái trống, mặt rỗng úp xuống thanh ngang, mặt đáy sát sợi dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy trống vang âm thành tiếng.
Chùa Linh Quang và ý thức Bảo vệ môi trường
Sư cô Giác Ân chăm trồng cây hoa, quả vườn chùa Linh Quang, gửi đến Phật tử gần xa lời dạy, bảo vệ môi trường của Đức Phật.
Sư cô viết:
“Tất cả những hư hỏng về sự suy thoái tầng ôzôn, sự biến đổi khí hậu trên trái đất làm tăng nhiệt độ, tăng tai nạn do thiên tai, giảm sức đề kháng của cơ thể… tất cả những vấn đề đó đều xuất phát từ tâm niệm xấu ác, trục lợi quá mức của con người.
Môi trường bên ngoài bị ô nhiễm trầm trọng cũng chính vì môi trường trong nội tâm con người hư hỏng nặng. Lòng tham của con người không bao giời biết dừng nghỉ cho nên nó đã thúc đẩy con người thụ hưởng quá mức nhu cầu cần thiết và kéo họ lao vào cuộc tranh giành bất tận, đưa đến tiêu diệt lẫn nhau, tàn phá môi trường sống của mình.
Trái với tâm tham lam, xấu ác là tinh thần sống thiểu dục, tri túc trong giáo lý đạo Phật. Trong khế kinh Đức Phật dạy: “ Tri túc chi chân, tuy ngoạ đạ thượng du vi an lạc, bất tri túc chi chan, tuy xứ thiên đườngdiệc bất xưng ý”. Nghĩa là: Người biết đủ dù nằm trên đất vẫn an lạc, trái lại, người không biết đủ dù ở trên thiên đường vẫn không vừa ý”.
Tiễn chúng tôi về Hà Nội, sư cô Giác Ân tặng
“Đặc sản Nem Bùi”. Sư cô nhiệt tình quảng bá món ăn dân dã của vùng Kinh Bắc mang hương vị đồng quê. Truyền thống nuôi lợn đen bằng nấu bèo, rau lang trộn cám, và chế biến Nem Bùi thơm thính gạo từ thịt lợn sạch làng Bùi Xá là món đặc sản làng Bùi Xá được du khách trong, ngoài nước yêu mến.
Sau 50 năm ngôi chùa Linh Quang được phục dựng. Sức sống của ngôi làng Bùi Xá cổ xưa Kinh Bắc hồn hậu tình người, vô lượng Nhân Tâm Phật, giúp sư cô Giác Ân vượt khó. Lên Hà Nội làm Phật sự, chiều tối, sư cô lại đi xe máy gần 40 km, về chùa Linh Quang thân thương của mình.
Chúng tôi hoan hỷ khi nhận ra sự tu và hành Đạo của các Tăng, Ni thời nay, gắn bó với đời sống, sinh hoạt hằng ngày của dân làng và Phật tử.
Đưa Phật Pháp và Văn hóa Phật giáo Việt Nam đến từng người, từng nhà, từng góc phố, bờ ao, thôn cùng, xóm vắng, qua các hoạt động của Dân, là cách tu, mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông dạy chúng ta. Phật tại Tâm.
Bài Mai Thục
Ảnh Bình Nguyên, Khúc Nga.