Tổ Tính Định với những đóng góp cho Đạo pháp


TỔ TÍNH ĐỊNH VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO ĐẠO PHÁP
 
Hòa thượng Thích Huệ Thông
 
      Cách đây trên 2000 năm, từ Ấn Độ, đạo Phật đã du nhập vào các nước Á Đông, khoảng thời gian này đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam. Trong “Việt Nam Phật giáo sử luận”, tác giả Nguyễn Lang ghi nhận: “Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch”. Đáng nói, thời bấy giờ, vị trí địa lý của nước Đại Việt chủ yếu là ở Đàng Ngoài, mãi cho đến thời nhà Nguyễn thì Đàng Trong mới bắt đầu hình thành từ Thuận Hóa trở vào và sau đó phát triển thành khu vực trù phú tại các tỉnh phía Nam như lịch sử ghi nhận. Qua đó, chúng ta có thể nói rằng, miền Bắc chính là cái nôi của Phật giáo Việt Nam và điều này cũng đã được chứng minh khi căn cứ vào một số di tích tại đền miếu các tỉnh phía Bắc, trong đó có các sử liệu liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã cho thấy Phật giáo sớm có mặt tại miền Bắc nước ta vào những năm đầu tiên của công nguyên.
      Trong suốt thời gian dài trên 2000 năm hiện diện, đồng hành và gắn kết keo sơn với dân tộc Việt Nam, đạo Phật đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với đất nước và con người Việt Nam, sự đồng hành và những ảnh hưởng tích cực đó đã khiến cho đạo Phật nghiễm nhiên đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình giữ nước và phát triển đất nước, nhất là qua mỗi giai đoạn lịch sử, Phật giáo Việt Nam luôn thể hiện sâu sắc vai trò trách nhiệm hộ quốc an dân với những đóng góp thiết thực vào nền văn hóa, tư tưởng và đạo đức của dân tộc.
      Như chúng ta đã biết, Phật giáo nước nhà trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 19 cho đến đầu thế kỷ 20 có thể nói là trên đà suy thoái, do hoàn cảnh Phật giáo và xã hội đương thời nên rất cần đến một công cuộc chấn hưng toàn diện, trước bối cảnh này, nhiều vị cao Tăng trú xứ tại miền Bắc đã tâm huyết với sự nghiệp xương minh Phật pháp và đã có những hoạt động thiết thực trong công tác giáo dục, hoằng pháp, nhất là tích cực phiên dịch kinh điển Đại thừa với mục đích phổ hóa chúng sanh, nhờ đó đã làm tiền đề cho công cuộc chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930 sau này, và Tổ Tính Định là một trong số những bậc cao Tăng thạc đức tràn đầy bầu nhiệt huyết đã góp công sức trí tuệ quý giá của mình vào sự nghiệp xương minh chánh pháp trong khoảng thời gian cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
     Theo hành trạng, Tổ Tính Định (Tổ Xiển Pháp) họ Hàn, thế danh Thái Ninh, ngài được sinh ra trong một gia đình thâm tín Phật pháp. Ngài xuất gia đầu Phật với Sư Tổ Thích Chính Bỉnh thuộc phổ hệ thứ 10 thiền phái Tào Động, tại chùa Hòe Nhai (Hà Nội). Đặc biệt, Tổ Tính Định tích cực tham gia cùng Tăng già khu vực phía Bắc giáo dục đào tạo Tăng tài, hoằng dương chánh pháp, xây dựng chùa chiền, diễn âm bằng chữ Nôm kinh Phật, san khắc và ấn tống kinh điển Phật giáo,… Nay, nhằm làm rõ cuộc đời, đạo nghiệp, tư tưởng cùng với những đóng góp vào di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam của Tổ Tính Định, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và Sơn môn Xiển Pháp đồng tổ chức Hội thảo khoa học: “Tổ Tính Định (1842 – 1901): Cuộc đời, đạo nghiệp và di sản”. Trước hết tôi rất hoan hỷ việc làm mang ý thức trách nhiệm tri ân công đức một bậc cao Tăng thạc đức của hàng hậu bối trong tông môn pháp quyến và tinh thần nhân văn sâu sắc của Hội thảo, thể hiện tấm lòng tôn kính ngưỡng mộ một bậc chân tu giới đức, theo đó là những di sản văn hóa quý giá đã để lại cho Phật giáo nước nhà, tôi mạo muội xin đóng góp cùng Hội thảo bài tham luận “Tổ Tính Định với những đóng góp cho đạo pháp”.
  1. Thân thế và sự nghiệp của Tổ Tính Định
      1.1. Thân thế
      Từ nguồn tư liệu do Thượng tọa Thích Thanh Chính (trụ trì chùa Dồng Dương) và Thượng tọa Thích Tiến Đạt (hậu duệ của Tổ Tính Định) thì Tổ họ Hàn, thế danh Thái Ninh, pháp hiệu Tâm Châu, pháp danh Tính Định, sinh vào năm Nhâm Dần (1842) trong một gia đình có truyền thống Nho học, tinh thông thế học, tại làng Đồng Dương, phủ Thanh Oai, nay là làng Đồng Dương, phường Đồng Mai, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội; trong sự nghiệp thế gian, ngài từng làm quan trong phủ Tổng Đốc Hà Nội.
      Về nhân duyên xuất gia đầu Phật, tương truyền nhân một lần đến chơi nhà đạo hữu là quan viên Tâm Bình, khi xem cuốn Tam tổ thực lục tại đây, ngài cảm thán: “Người xưa có địa vị đế vương, hay trạng nguyên còn bỏ lại vinh hoa phú quý để xuất gia học đạo huống chi ta chỉ là một viên quan nhỏ”[1], khi nghe ngài tình trần như vậy, đạo hữu Tâm Bình bèn khuyên ngài nên đọc tụng kinh Lăng Nghiêm sẽ tỏ thông lý tánh, mở mang trí tuệ. Và cũng nhờ chuyên tâm trì tụng Kinh Lăng Nghiêm ngài như được khai ngộ tự tâm, liễu tri nhất thiết pháp đều là bóng dáng tình trần, là vô thường huyễn hoặc; năm 1869, khi đó được 27 tuổi, ngài đến chùa Hòe Nhai xin xuất gia với Tổ sư Chính Bỉnh đời thứ 11, thiền phái Tào Động, được thọ giới Sa di với pháp danh Tâm Châu, lần lượt ngài thọ Bồ tát giới với Tổ sư Quang Lư (Tổ Quả) được Tổ ban đạo hiệu Tính Định, ban đầu ngài được Tổ Quang Lư hướng dẫn pháp môn Tịnh Độ[2]. Đến năm 1872 (Nhâm Thân) ngài bỏ ra 2000 quan tiền để mua lại của quan Tổng đốc Hà Thành một khu đất có vị trí phù hợp cho việc xây dựng ngôi Tam Bảo[3] tại làng Hà Khẩu, phủ Thọ Xương (Hà Nội), chùa không tồn tại mà vị trí của chùa khi xưa, nay chính là nền đất của ngôi nhà số 1, ngách 2, ngõ 20, phố Cát Linh, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
  1. Sự nghiệp
     Nói về sự nghiệp của Tổ Tính Định, nổi bật lên với ba sứ mạng trọng đại, thứ nhất là kiến lập nên ngôi chùa Xiển Pháp vang bóng một thời; thứ hai là mở mang đạo tràng, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức; thứ ba là công trình diễn âm bằng chữ Nôm kinh Phật và san khắc, ấn tống kinh điển trong những năm tháng Phật giáo nước nhà đang trên đà suy thoái.
     Về công trình khai sơn chùa Xiển Pháp, có thể nói rằng, so với các Tổ đình tại miền Bắc nói chung và trong khu vực nói riêng, như so với chùa Hồng Phúc Hòe Nhai, thì chùa Xiển Pháp do Tổ Tính Định khai sáng thời bấy giờ còn rất khiêm tốn, tuy chưa được quy mô bề thế, nhưng việc Tổ đặt tên chùa là Xiển Pháp Tự cũng đã nói lên hết chí nguyện cao cả và hoài bão lớn lao của ngài, tận tậm tận lực vì sự nghiệp hoằng dương chánh pháp của ngài.
Mặt khác, một yếu tố khách quan khác nữa, đó là do mảnh đất mà Tổ mua lại từ một phần trong khu vườn của quan Tổng đốc Hà Thành có diện tích chưa đủ để dựng lập một ngôi già lam quy mô đúng nghĩa, cộng với bao đổi thay biến động, nên toàn bộ ngôi chùa Xiển Pháp ngày xưa càng ngày càng mất dấu và dần dần bị dân cư hóa theo năm tháng thời gian, thật đáng tiếc cho một công trình thiêng liêng trong không gian Phật giáo nước nhà không còn lưu dấu, nhưng với Phật pháp thì mọi việc đều thuận theo lý nhân duyên nên chúng ta cũng dễ dàng chấp nhận sự kiện này.
      Quay lại việc dựng lập ngôi Tam Bảo, vào năm 1872 (Nhâm Thân) từ khi để tâm đến mảnh đất lý tưởng trong khu vườn của quan Tổng đốc Hà Thành, suốt 3 năm sau đó Tổ đã chuẩn bị tài chánh đầy đủ, cho đến năm 1875 (Ất Hợi), vào ngày 02 tháng 05, năm Tự Đức thứ 25, ngài mới khởi công xây dựng ngôi Tam Bảo và đặt tên chùa là chùa Xiển Pháp; một chi tiết thú vị nữa, đó là do ngôi chùa được xây dựng trên mãnh đất vốn là trại cũ trong khu vườn của quan Tổng đốc, nên chùa Xiển Pháp còn được người dân địa phương đặt cho cái tên rất là dân dã là “chùa Trại”. Điểm đặc biệt trong cách bài trí trong ngôi chủa Xiển Pháp, đó là cặp câu đối với hai chữ đầu là “Xiển” và “Pháp” mang nội dung xiển dương pháp môn Tịnh Độ, như sau:
Xiển Tịnh Độ Tông, tư thế dị tu hoàn dị chứng
Pháp vô thượng thuyết, tín căn nan giải thả nan hành.
Có ý nghĩa như sau:
Xiển dương Tông Tịnh Độ, đời này dễ tu lại dễ chứng
Giảng nói pháp vô thượng lòng tin khó phát cũng khó tu.
     Theo nguồn tư liệu của hàng hậu duệ Tổ cung cấp, thì Tổ chú trọng xiển dương pháp môn Tịnh Độ, nên trên chánh điện chỉ tôn thờ Đức Phật A Di Đà ở chính giữa điện và hai vị Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí được tôn thờ hai bên tả hữu[4]. Nói về sự nghiệp xây dựng chùa chiền, trùng tu Tam Bảo, ngoài việc khai sáng chùa Xiển Pháp ra, tư liệu về Tổ Tính Định ghi nhận việc Tổ Tính Định còn tác phúc khai sáng chùa Đồng Dương vào năm 1885, chùa Ước Lễ ở Thanh Oai vào năm 1890, chùa Đồng Tỉnh ở Nghĩa Trụ (Hưng Yên) vào năm 1893, ngài cũng đã trùng tu lại chùa Tứ Liên ở Tây Hồ và chùa Nôm ở Hưng Yên,…
     Ngày nay lịch sử chùa Xiển Pháp chỉ còn lưu dấu qua hai tấm bia “Xiển Pháp Tự Bi Ký” trong đó ghi rõ nhân duyên ngài xây dựng chùa, về niên đại mua đất (1872) và khai sáng ngôi chùa (1875), về niên đại trùng tu (1879), cùng mô tả tổng quát cấu trúc cũng như bài trí trong chùa như: “Nội Điện ba gian, giữa thờ tượng Phật A Di Đà, hai bên thờ hai vị Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Bên trái thờ tượng Phật Thánh Tăng, bên phải thờ tượng Thần Thổ Địa… Vào năm 1879 (Kỷ mão) là trùng tu một tòa ngoại điện (tiền đường) gồm 05 gian cùng nhà thờ Tổ, phòng ở, lầu chuông, lầu trống, trồng cây cối vườn hoa xung quanh, dần dần hình thành cũng tạm gọi là một tiểu tùng lâm. Nên lập bia lại để chỉ bảo cho đời sau”,… Trong bia cũng ghi phương danh Phật tử cúng dường tịnh tài để xây chùa như: “Quan Tâm Bình cúng tiền 400 quan. Hiệu Đức hạnh ba lần cúng 511 quan, Công Thiện Hội cúng 70 quan, Trần Quảng Xương cúng 200 quan… cùng các thiện tín họ Hàn, họ Ngô, bá tánh thập phương”. Cuối tấm bia thể hiện niên đại lập bia là “Bản tự trù trì, Hàn      Thái Ninh, pháp danh Tính Định ghi; năm Tự Đức Tân Tỵ (1881) tháng 04 (mạnh hạ), ngày tốt”[5].   
     Xây chùa độ Tăng là hai sứ mạng cao cả cùng song hành của Tăng già mọi thời đại và trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp của Tổ Tính Định cũng gắn liền với trọng trách đào tạo Tăng tài cho Phật giáo tại miền Bắc thời bấy giờ. Từ nguồn tư liệu về Tổ Tính Định do quý thầy trong tông môn cung cấp, chúng tôi được biết, sinh thời Tổ Tính Định hóa duyên thế độ nhiều Phật tử trở thành người xuất gia mẫu mực, trong đó ngài thế độ được 07 vị đệ tử, tất cả đều trở thành những bậc danh Tăng đức độ và có ảnh hưởng trong Tăng đoàn ở miền Bắc, như đệ tử thứ nhất của Tổ Tính Định lả Hòa thượng Thích Thanh Thức kế đăng chùa Đồng Dương; đệ tử thứ hai là Hòa thượng Thích Thanh Trì kế đăng chùa Xiển Pháp; đệ tử thứ ba là Hòa thượng Thích Thanh Chư khai sáng chùa Đông Tân; đệ tử thứ tư là Hòa thượng Thích Cần Mẫn kế đăng chùa Ước Lễ, đệ tử thứ năm là Hòa thượng Thích Thanh Mai khai sáng chùa Quang Minh ở Đống Đa – Hà Nội, chùa Văn Điển, chùa Quỳnh Đô,... đệ tử thứ sáu là Hòa thượng Thích Thanh Hiểu trụ trì chùa Tứ Liên và đệ tử thứ bảy của ngài là Hòa thượng Thích Thanh Hợp kế đăng chùa Cầu Nôm và chùa Đồng ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (hiện nay vẫn còn tháp thờ và di ảnh của Hòa thượng Thích Thanh Hợp tại ngôi chùa này). Ngoài hàng đệ tử xuất gia là những bậc thạch trụ của Tòng lâm, Ngài còn độ cho hàng ngàn tín đồ quy.     y và có niềm tin với Phật pháp trong thời gian Ngài tại thế.
      Ngoài việc xây chùa độ Tăng, trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của Tổ Tính Định, nổi bật lên với sự nghiệp trước tác, phiên dịch và diễn Nôm các kinh điển Đại thừa, chủ yếu là các kinh điển về Tịnh Độ tông. Theo các nguồn tư liệu hậu duệ Tổ cung cấp, chúng tôi được biết, trong suốt 20 năm, kể từ năm 1880 đến năm 1900, Tổ đã khắc bản in kinh tới 22[6] bộ kinh, trong số đó có 08 quyển do ngài diễn Nôm xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Chính vì vậy mà chủa Xiển Pháp trở thành một trong số trung tâm hoằng dương pháp môn Tịnh Độ và ấn tống kinh điển rất nổi tiếng thời bấy giờ.  
Chúng ta có thể thấy, trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, khi các nhà yêu nước tham gia vào các phong trào cứu Quốc, cũng như các bậc danh Tăng tập trung vào công cuộc chấn hưng Phật giáo, Tổ Tính Định có thể nói là một trong những bậc danh Tăng đương thời, đã tham gia tích cực trong việc bảo vệ đất nước, xiển dương Phật pháp, bảo tồn di sản văn hoá việt Nam nói chung, văn hoá Phật giáo Việt Nam nói riêng, trong bối cảnh tư tưởng và văn hoá phương Tây tràn ngập  vào đất nước Việt Nam.
  1. Tư tưởng Phật học của Tổ Tính Định
     Tư tưởng Phật học của Tổ Tính Định thể hiện rất rõ qua đôi câu liển đối “Xiển Tịnh Độ Tông, tư thế dị tu hoàn dị chứng/ Pháp vô thượng thuyết, tín căn nan giải thả nan hành”. Đó là tìm mọi cách thuận lợi nhất để giúp hàng hậu học và quần chúng Phật tử tiếp cận dễ dàng với chánh pháp của Như Lai, cũng như chỉ dạy Phật tử và quần chúng hữu duyên cách thức tu hành đơn giản và hiệu quả nhất bằng pháp môn Tịnh Độ.
Tuy thọ giáo, xuất thân từ tư tưởng thiền học Tào Động, nhưng Ngài luôn vận dụng trên tinh thần “Phương tiện huyền xảo từ bi độ chúng sinh giả”. Qua các tác phẩm Ngài để lại, chúng ta thấy, Ngài vận dụng phương tiện một cách huyền xảo, điều cốt yếu là làm cho chúng sinh có niềm tin sâu sắc vào Phật pháp để giác ngộ, tu tập giải thoát. Do đó, Pháp môn niệm Phật trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam trên đà suy thoái là rất quan trọng và cần thiết. Bởi, niềm tin của quần chúng thời bấy giờ chỉ nhắm vào việc cầu nguyện bình an khi còn sống và nguyện về thế giới Cực Lạc khi qua đời. Trong bối cảnh này, Tổ Tính Định vì muốn phương tiện độ chúng sinh, nên Ngài xiển dương pháp môn niệm Phật để mang lại bình an, điều này cũng phù hợp với tư tưởng của các bậc Tổ sư trong quá trình hoằng dương Phật pháp.
     Như vậy, tư tưởng Phật học của Tổ Tính Định rất rõ ràng mạch lạc, đó là dùng tín căn để bước vào con đường đạo pháp, dùng chí nguyện tha thiết cầu vãng sanh Cực Lạc để kiên cố tu hành và nhất là nhân hạnh chuyên nhất để công phu tu niệm theo yếu chỉ của pháp môn Tịnh Độ. Ngoài ra, tư tưởng Phật học của Tổ Tính Đinh, còn thể hiện rất rõ qua hoài bão của ngài, là làm sao để chánh pháp Như Lai được trường tồn, pháp môn Tịnh Độ được nhanh chóng lan tỏa trong đời sống con người, để mỗi ngày trôi qua sẽ là những ngày ý nghĩa nhất của người học Phật, bởi theo ngài, qua công phu tu tập thì trong từng thi vi động niệm, trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi nằm, mọi người khi đến với pháp môn Tịnh Độ đều sẽ được gieo nhân hạnh giải thoát sâu dày trong ngôi nhà Phật pháp.
     Như chúng ta đã biết, Tổ Tính Định (1842 – 1901) là hàng tôn túc kế thừa của tông Tào Động, chính vì vậy khi đề cập đến tư tưởng Phật học hay thiền học của Tổ Tính Định, chúng tôi thiết nghĩ cũng nên tìm hiểu đôi nét về nguồn gốc và mạng mạch truyền thừa của tông phái Tào Động nói chung và thiền phái Tào Động tại Việt Nam nói riêng.
     Thiền tông là một trong những tông phái chánh truyền của Phật giáo có phong cách khai thị thẳng tắt, từng gây nhiều tranh cãi trong giới học Phật, khi nói đến thiền phái Tào Động thiết nghĩ chúng ta cũng nên sơ lược về nguồn gốc thiền tông.
Lịch sử thiền tông bắt nguồn từ sự kiện “Niêm hoa vi tiếu”, trong kinh Niết Bàn (bản dịch của ngài Pháp Hiển và Đàm Vô Sấm) đã ghi lại sự kiện này: “Trước mặt đông đảo đại chúng, Đức Thế Tôn không tuyên thuyết pháp thoại như mọi ngày, mà lặng lẽ đưa lên một cành hoa, trong khi đại chúng còn đang ngơ ngác, chỉ có đại trưởng lão Ca Diếp mỉm cười. Ngay khi đó, đức Phật tuyên bố với các thầy Tỳ kheo: “Ta có chánh pháp vô thượng trao cho Ma Ha Ca Diếp. Ca Diếp là chỗ nương tựa lớn cho các thầy Tỳ kheo, cũng như Như Lai là chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh”. Từ nhân duyên này, chư vị Tổ sư đã diễn đạt lại trong Liên Đăng Hội Nguyên (Tục Tạng) theo ngôn ngữ của thiền tông: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật, nay trao cho Ca Diếp”. Kể từ đây, Thiền Tông được lưu truyền tại Ấn Độ trải qua 28 đời, vị Tổ đời thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, ngài vân du sang Đông độ, làm Sơ Tổ thiền tông tại Trung Hoa, ấn chứng tâm tông, truyền trao y bát trải qua 6 đời, đến đời Tổ thứ 6 là Lục Tổ Huệ Năng thì tạm ngưng việc truyền y bát vì lòng tin của đại chúng đã tròn đầy. Sử sách ghi nhận, vào thời nhà Đường, thiền tông phát triển mạnh tại Trung Hoa và nhanh chóng lan rộng sang Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam, trong giời hạn của tham luận này, chúng tôi xin điểm qua vài nét về thiền phái Tào Động tại Việt Nam.
     Kế tiếp Lục Tổ Huệ Năng, thiền tông phát triển thành nhiều chi nhánh, nhưng chủ yếu tập trung vào hai thiền phái Hành Tư (Thanh Nguyên) và Hoài Nhượng (Nam Nhạc), từ nhánh của thiền sư Hành Tư - Thanh Nguyên (tức thề hệ thứ 7 thiền tông Đông độ) truyền pháp đến thiền sư Vân Nham – Đàm Thịnh (thề hệ thứ 10 thiền tông Đông độ). Thiền sư Vân Nham – Đàm Thịnh truyền pháp cho thiền sư Động Sơn Lương Giới, từ thiền sư Động Sơn Lương Giới tông Tào Động được hình thành và ngài Động Sơn Lương Giới là Sơ Tổ của tông Tào Động.
      Tông Tào Động là một trong năm thiền phái rất thịnh hành thời bấy giờ, sử sách thường ghi “Thiền tông ngũ gia” hay “Ngũ gia tông phái”, đó là tông Tào Động, Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn, mà danh xưng và tính cách tu tập của năm thiền phái này rất nổi danh trong chốn tùng lâm với bài kệ đi vào lịch sử thiền tông: “Lâm Tế thống khoái/ Quy Ngưỡng cẩn nghiêm/ Tào Động tế mật/ Vân Môn ký cổ/ Pháp Nhãn tường minh”, trong đó, tông Tào Động do thiền sư Động Sơn Lương Giới (807- 889) sáng lập rất thịnh hành từ đời thứ 5 (sau Lục Tổ Huệ Năng), được truyền thừa đến đời thứ 15 (sau Lục Tổ Huệ Năng). Như vậy tông Tào Động tương tục truyền thừa được 11 đời thì về sau đó dần dần mất dạng...
      Theo Tư liệu về Tổ Tính Định do quý thầy trong tông môn cung cấp, thì Tổ Tính Định -  Sơ Tổ của chi phái Xiển Pháp thuộc tông Tào Động tại Việt Nam, là đệ tử nối pháp của thiền sư Chính Bỉnh, tức Tỳ kheo Vô Tướng Thái Hòa, thế hệ nối pháp thứ 78 của thiên tông và là đời thứ 11 chi phái Tào Động tại Việt Nam. Nếu căn cứ nguồn tư liệu này, chúng ta sẽ có một trải nghiệm hết sức thú vị, đó là Tổ Tính Định là thiền sư thế hệ thứ 79 của thiền tông và là bậc tôn sư sáng lập ra chi phái Xiển Pháp thuộc tông Tào Động (tại Việt Nam) thay vì truyền thừa mạng mạch Tổ sư, ngài đã chuyên tâm vào việc xiển dương pháp môn Tịnh Độ,… Điều này cho chúng ta thấy, tư tưởng Phật học và tư tưởng thiền học của Tổ Tính Định là sự dung hòa đường lối “Tào Động tế mật” của thiền Tào Động với phương thức tu hành “Tín sâu - Nguyện thiết – Hạnh chuyên” và “Tùy tâm tịnh tức Phật độ tịnh” của tông Tịnh Độ. Sự dung thông giữa hai tông phái này đã xóa đi lằn ranh khác biệt trong cách nghĩ về các pháp môn hướng đến con đường giác ngộ giải thoát của Phật giáo, và phải chăng đây là tư tưởng Phật học tuy giản dị gần gũi mà rất trí tuệ thâm sâu của Tổ Tính Định?!
  1. Tạm kết
       Hội thảo khoa học tổ chức lần này thảo luận về cuộc đời, đạo nghiệp và di sản của Tổ Tính Định, như vậy sẽ có hai nội dung chính, nội dung thứ nhất là bàn về cuộc đời và đạo nghiệp của Tổ; nội dung thứ hai chúng ta sẽ bàn về di sản mà Tổ đã để lại cho Phật giáo nước nhà.
       Trong nội dung thứ nhất, liên quan mật thiết đến cuộc đời và đạo nghiệp của Tổ, đó chính là ngôi chùa Xiển Pháp do Tổ Tính Định khai sáng và chi phái Tào Động tại Việt Nam mà Tổ là nhân vật lịch sử được kế thừa dòng pháp này. Tuy nhiên, về ngôi chùa Xiển Pháp, ngoài hai bia ký lưu dấu ngôi già lam tại Hà thành thuở xưa, thì chùa Xiển Pháp ngày nay không còn tồn tại như ban đầu. Đây là một trở ngại khách quan khiến cho việc nghiên cứu sâu hơn về cuộc đời và đạo nghiệp của Tổ sẽ trở nên giới hạn; lại nữa, khi nói về đạo nghiệp của Tổ, một nhân vật lịch sử xuất phát từ dòng thiền Tào Động mà theo nguồn Tư liệu về Tổ Tính Định do quý Tôn túc trong tông môn cung cấp, thì Tổ Tính Định là vị Tổ đời thứ 79 của Thiền tông nói chung và là vị Tổ đời thứ 12 của pháp mạch thiền phái Tào Động được nối truyền tại Việt Nam nói riêng, thế nhưng nguồn tư liệu giúp cho việc nghiên cứu chuyên sâu về pháp mạch Tào Động được truyền thừa tại Việt Nam thì có phần khiêm tốn, chính vì vậy mà việc nghiên cứu về đạo nghiệp và pháp mạch mà Tổ được truyền thừa cũng sẽ có phần giới hạn. Trong nội dung thứ hai, khi thảo luận về di sản mà Tổ đã để lại cho Phật giáo nước nhà, nội dung chính là tập trung vào các công trình phiên dịch và diễn Nôm kinh điển, xây dựng các ngôi Tam bảo mà Tổ thực hiện nhằm phục vụ cho sự nghiệp hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Tuy nhiên, chỉ trong nội dung tương đối dễ tra cứu và liệt kê này cũng đã có nhiều nguồn tư liệu chưa thống nhất, chẳng hạn, khi liệt kê các công trình diễn Nôm kinh điển và dịch thuật của ngài, Tiến sĩ Vương Thị Hường, Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong bài viết “Chùa Xiển Pháp Hà Nội – Ngôi chùa và những cuốn sách kinh Phật” đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 5 (120); trang 62 – 67, thì ghi là 15 cuốn. Thế nhưng cũng trong bài viết này, tác giả còn ghi chú thêm: “…Dựa vào cuốn Các Tự Kinh Bản Thiện Thư Lược Sao(A.1116)  của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thì các bản kinh được in ở chùa Xiển Pháp có 17 cuốn”. Ngoài ra, theo tác giả Mai Hồng – Nguyễn Hữu Mùi, trong tạp chí Hán Nôm, số 1 năm 1989 cho biết: “Cơ sở in ấn tại chùa Xiển Pháp tồn tại trong khoảng thời gian từ 1882 – 1898, in được 13 bộ kinh Phật”. Trong khi đó, tài liệu nội bộ của tông môn thì ghi rằng: “Trong khoảng 20 năm từ năm 1880 đến 1900 ngài khắc ván in kinh tới 22 bộ kinh, trong đó 8 quyển do ngài diễn Nôm về giáo nghĩa Tịnh Độ”, qua đó chúng tôi thiết nghĩ, sự chưa thống nhất này sẽ là một trong những nội dung cần hướng đến trong Hội thảo lần này.
      Tóm lại, với một ngôi chùa chỉ còn lưu dấu qua hai bia ký, và với một dòng thiền uyên áo lúc ẩn lúc hiện qua dòng chảy thời gian và qua sự thịnh suy của Phật giáo trong từng giai đoạn lịch sử,[7] chính vì lẽ đó mà pháp mạch Tào Động tại Việt Nam nói chung và chi phái Xiển Pháp - Tào Động tại Việt Nam nói riêng[8] hầu như ít được nhắc đến trong thư tịch cũng như trong sách sử. Từ đó, chúng tôi xin được phép mạo muội đưa ra một nhận định, xét trên phương diện nghiên cứu và học thuật, thì Hội thảo này sẽ làm sống dậy các giá trị lịch sử đã mai một bởi dòng chảy thời gian. Tuy nhiên, xét về phương diện tâm linh, chúng ta có quyền tự hào và khẳng định, Hội thảo lần này mang một giá trị đạo đức và nhân văn sâu sắc về tinh thần uống nước nhớ nguồn của hàng hậu duệ trong tông môn pháp phái Tào Động tại Việt Nam, là động cơ để chúng ta không chỉ khôi phục các giá trị thiêng liêng về lịch sử, cũng như các giá trị về tri thức, đạo đức, văn hóa và di sản Phật giáo tại Hội thảo lần này, mà còn là tiền đề để chúng ta hướng đến tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, ghi nhận thêm những giá trị quý báu còn ẩn tàng đâu đó trong không gian chung của Phật giáo nước nhà.  Đặc biệt, là làm sáng toả cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến quan trọng của Tổ Tính Định trong không gian di sản văn hoá Phật giáo Việt Nam, nhằm tôn vinh và tri ân các bậc tiền bối, đồng thời cũng là bài học cho thế hệ mai sau, nối gót theo con đường mà các bậc tổ sư đã để lại cho đạo pháp và dân tộc.
 
[1] Trích từ “Tư liệu Tổ Định Tính” do TT.Thích Tiến Đạt (hậu duệ Tổ Tính Định) cung cấp.
[2] Trích từ “Tư liệu Tổ Định Tính” do TT. Thích Tiến Đạt (hậu duệ Tổ Tính Định) cung cấp.
[3] Thật đáng tiếc, thời bấy giờ khu đất của quan Tổng đốc Hà Thành không thấy tư liệu nào nhắc đến vị trí cụ thể, mà chỉ xác định vị trí hiện nay của ngôi Tam Bảo này tọa tạc một cách ước đoán, như: “Xiển Pháp tự, tả cận Văn Miếu, hữu cận Cát Linh…”.  .
[4] Theo Tư liệu Tổ Tính Định.
[5] Theo tư liệu Tổ Tính Định, trang 06 và bản in nội bộ.
[6] Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Vương Thị Hường (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), trong bài viết “Chùa Xiển Pháp Hà Nội – Ngôi chùa và những cuốn sách kinh Phật” đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 5 (120); trang 62 – 67, thì ghi là 15 cuốn. Cũng trong bài viết này, tác giả còn ghi chú thêm: “…Dựa vào cuốn Các tự kinh bản thiện thư lược sao (A.1116) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thì các bản kinh được in ở chùa Xiển Pháp có 17 cuốn”.  Ngoài ra, theo tác giả Mai Hồng – Nguyễn Hữu Mùi, trong tạp chí Hán Nôm, số 1 năm 1989 cho biết: “Cơ sở in ấn tại chùa Xiển Pháp tồn tại trong khoảng thời gian từ 1882 – 1898, in được 13 bộ kinh Phật”.  
[7] Cũng giống như các thiền phái Pháp Nhãn hay Vân Môn đều lúc ẩn lúc hiện.
[8] Tổ Tính Định được đồ chúng trong tông môn suy tôn là Sơ Tổ.