Ý nghĩa pháp danh
Pháp danh của người phật tử tại gia không có chữ Thích đi trước, mà chỉ có những chữ như Cư sĩ, Đạo hữu, Tín nữ, Phật tử…ở phía trước mà thôi. Ngoài ra tín đồ Phật giáo cũng được đặt pháp danh sau khi qua đời để xử dụng trong lúc cung hành tang lễ nếu như khi còn tại thế chưa quy y.
Một người sau khi quy y Tam bảo sẽ chính thức trở thành người phật tử, theo đó sẽ có một pháp danh cho riêng mình do thầy bổn sư 5 giới truyền trao
Pháp danh gồm hai (2) chữ:
Chữ đầu chỉ sự liên hệ đến thế hệ trong môn phái theo bài kệ của Ngài Tổ môn phái đó.
Chữ thứ hai là do vị Bổn Sư chọn lựa dựa trên ý nghĩa của tên người đệ tử (thế danh) để tạo thành một chữ kép mang ý nghĩa hay, đẹp và có tính khuyến tu.
Ví dụ: Người đệ tử tên Mỹ, quy y với vị Bổn Sư có Pháp danh chữ trước là TÂM ( thượng Tâm) sẽ có Pháp danh chữ trước là Nguyên; chữ sau có thể là Mãn. Tức là Nguyên Mãn: chữ Nguyên theo thứ tự thế hệ trong bài kệ của Ngài Tổ Liễu Quán, còn chữ Mãn là theo tên của người đệ tử là Mỹ, tạo thành một chữ kép có nghĩa tu hành được tốt đẹp (Mỹ Mãn).
Đôi khi tên người đệ tử đã mang sẵn chữ có ý nghĩa đạo và ý nghĩa phù hợp với chữ trong bài kệ, vị Bổn sư để nguyên và không cần thay đổi, hoặc tên không thể tìm được chữ ghép thì có thể lấy chữ trong tên của các vị La Hán, Bồ Tát v.v… để tạo thành Pháp danh. Các Ngài bổn Sư trước đây thường lấy chữ trong cuốn Kim Quang Minh Tam Tự để đặt pháp danh cho đệ tử.
Phật giáo Việt Nam hiện nay đều xuất từ Thiền Tông và đa số thuộc dòng Tào Động (miền Bắc), Lâm Tế (miền Trung và miền Nam). Các Long vị của các Ngài Tổ đều ghi Lâm Tế, nhưng pháp tu lại kiêm cả Tịnh và Mật Tông. Ví dụ, ở Huế hiện ít nhất cũng đang truyền thừa theo ba (3) bài kệ của từng vị Tổ môn phái xuất kệ nhưng đều thuộc dòng Lâm Tế.
Bài kệ của Ngài Thiền Sư Vạn Phong Thời Uỷ ( Môn phái Hải Đức, Huế. Môn phái Thập Tháp Di Đà, Bình Định, đều dùng bài kệ này:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Tổ Đạo Giới Định Tông 祖導戒定宗
Phương Quảng Chứng Viên Thông 方廣證圓通
Hạnh Siêu Minh Thật Tế 行超明寔際
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không 了達悟真空
Như Nhật Quang Thường Chiếu 如日光常照
Phổ Châu Lợi Ích Đồng 普周利人天
Tín Hương Sanh Phước Huệ 信香生福慧
Tương Kế Chấn Từ Phong 相繼振慈風
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở khoảng chữ CHƠN.
Đa số các chùa khác thuộc môn phái Ngài Liễu Quán và dùng bài kệ sau:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Thật Tế Đại Đạo 實際大導
Tánh Hải Thanh Trừng 性海清澄
Tâm Nguyên Quảng Nhuận 心源廣潤
Đức Bổn Từ Phong 德本慈風
Giới Định Phước Huệ 戒定福慧
Thể Dụng Viên Thông 體用圓通
Vĩnh Siêu Trí Quả 永超智果
Mật Khế Thành Công 密契成功
Truyền Trì Diệu Lý 傳持妙里
Diễn Sướng Chánh Tông 演暢正宗
Hạnh Giải Tương Ưng 行解相應
Đạt Ngộ Chơn Không 達悟真空
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ TRỪNG.
Hai dòng nầy phát triển rất mạnh ở miền Trung và miền Nam. Ngoài ra ở Huế có môn phái chùa Quốc Ân do Tổ Nguyên Thiều lập lại dùng bài kệ của Ngài Đạo Mân đời thứ 31 như sau:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên 導本原成佛祖先
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên 明如紅日麗中天
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ 靈源廣潤慈風溥
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền 照世真燈萬古懸
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ LỆ.
Riêng ở Quảng Nam Đà Nẳng có môn phái chùa Chúc Thánh thuộc Ngài Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ khác như sau:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Minh Thật Pháp Toàn Chương 明寔法全章
Ấn Chơn Như Thị Đồng 印真如是同
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu 祝聖壽天久
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường 祈國祚地長
Đắc Chánh Luật Vi Tuyên 得正律為宣
Tổ Đạo Hạnh Giải Thông 祖導行解通
Giác Hoa Bồ Đề Thọ 覺花菩提樹
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung 充滿人天中
Ngoài ra còn những bài kệ khác như của Ngài Trí Thắng Bích Dung đời thứ 41 biệt xuất như sau:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Trí Huệ Thanh Tịnh 智慧清淨
Đạo Đức Viên Minh 道德圓明
Chơn Như Tánh hải 真如性海
Tịch Chiếu Phổ Thông 寂照普通
Tâm Nguyên Quảng Tục 心源廣續
Bổn Giác Xương Long 本覺昌隆
Năng Nhơn Thánh Quả 能仁聖果
Thường Diễn Khoan Hoằng 常演寬宏
Duy Truyền Pháp ấn 惟傳法印
Chánh Ngộ Hội Dung 正悟會容
Không Trì Giới Hạnh 空持戒行
Vĩnh Kế Tổ Tông 永繼祖宗
Ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc cũng biệt xuất bài kệ:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Minh Chơn Như bảo Hải 明真如寶海
Kim Tường Phổ Chiếu Thông 金祥普照通
Chí Đạo Thành Chánh Quả 至導成正果
Giác Ngộ Chứng Chơn Thường 覺悟證真空
Ngài Tri Giáo Nhất Cú tông Tào Động cũng xuất bài kệ:
Âm Hán Việt -> Chữ Hán
Tịnh Trí Viên Thông Tông Từ Tánh 淨智圓通宗慈性
Khoan Giác Đạo Sanh Thị Chánh Tâm 寬覺道生是正心
Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Huệ 密行仁德稱良慧
Đăng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Trường 燈普照宏法永長
Ba bài kệ sau cùng, người viết chưa đủ duyên để được gặp quý Thầy thuộc các môn phái đó nên không biết những chi tiết khác.
Ngoài ra trong thời gian gần đây, về phía nữ Phật tử cũng có một số được đặt pháp danh mang chữ Diệu, Minh như Phật giáo Nhật Bản, Trung Quốc v.v… Trên đây là những điều mà cá nhân người viết đã may mắn được sự chỉ dẫn và giải thích của Quý Thầy trong thời gian học hỏi và phụ giúp về nghi Lễ.
Ngoài ra, trong nghi lễ pháp danh chỉ được dùng trong Sớ để tác bạch lên chư Phật và Bồ Tát mà thôi, còn các việc khác bậc xuất gia đã có Pháp tự, Pháp hiệu; tại gia có tự, hiệu…
Nguồn: Phatgiao.org