Phân biệt: Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am?
Nhìn chung, hầu hết các di tích kiến trúc còn lại thường là nơi thờ phụng các thần linh. Có nghĩa là đều gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, và tuỳ theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau.
ĐỀN ?
Là nơi thờ Thánh hoặc những nhân vật lịch sử đã được thần thánh hoá. Đền có nhiều dạng. Loại hình to lớn về cả mặt bằng lẫn ý nghĩa, có thể kể tới như đền Hùng, đền Gióng, đền Vua Đinh, vua Lê, đền Lý Bát Đế, đền Kiếp Bạc… Các đền thờ thần linh dân dã như đền Độc Cước cũng có khi đền gắn với việc thờ các thần linh hoặc những nhân vật của địa phương được thiêng hoá.
Ảnh minh họa: Đền Kiếp Bạc
MIẾU ?
Thường là ngôi đền nhỏ như Miếu Thổ Địa, Miếu Cô, Miếu Cậu… Nhìn chung không phải là nơi thờ thần linh có vai trò to lớn. Tuy nhiên trong một vài trường hợp cụ thể có thể thấy Miếu là một kiến trúc khá lớn, đôi khi chiếm một diện tích mặt bằng đáng kể, ví như Văn Miếu, Võ Miếu. (Miếu xuất hiện ở nước ta vào thế kỷ XI).
Ảnh minh họa: Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
NGHÈ ?
Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều (Cẩm Giàng – Hải Dương), cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh (hiện nay mới tìm được ngôi nghè cổ nhất từ thế kỷ XVII).
Ảnh minh họa: Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh
ĐIỆN ?
Ảnh minh họa: Điện Thái Hòa (Hoàng thành Huế)
PHỦ ?
Thường là nơi thờ mẫu, Phủ Giầy, Phủ Tây Hồ,… một số nơi thờ tự (không nhất thiết thờ Mẫu) ở Thanh Hóa cũng gọi đền là Phủ. Suy cho cùng phủ là một nơi thờ tự thánh mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật). Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần nữ nhân ở chùa Bút Tháp có niên đại vào giữa Thế kỷ XVII.
Ảnh minh họa: Phủ Tây Hồ
Quán ?
Một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Tùy theo từng thờ mà có các dạng thức khác nhau. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như của một đền thờ vị thần thánh.
Như Bích Câu đạo quán thờ Tú Uyên, rồi đền thờ Từ Thức… Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh (Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân), Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô) đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ (Ngọc Hoàng) – Có thể kể tới các quán điển hình như: Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây.
Ảnh minh họa: Bích Câu đạo quán
AM ?
Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am được nghĩ tới từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng Làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân.
Ảnh minh họa: Hương Hải Am (Chùa Thầy)