Phật Giáo Chăm-Pa và vị trí của vùng đất Quảng Bình dưới Triều đại INDRAPURA (TK. IX - X)


PHẬT GIÁO CHĂM-PA VÀ VỊ TRÍ CỦA VÙNG ĐẤT
QUẢNG BÌNH DƯỚI TRIỀU ĐẠI INDRAPURA (TK. IX - X)
 
  1.  Dẫn luận
Đại Việt và Chăm-pa trong lịch sử là những quốc gia hình thành trên một vùng địa sinh thái khá tương đồng. Điều ấy phản chiếu sự gần gũi trong mọi ứng xử văn hóa của hai dân tộc, trong quá trình thích ứng với điều kiện tự nhiên nơi cư trú. Sự chuyển biệt xảy ra đáng ghi nhận ở đây kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên, lịch sử đã sắp xếp cộng đồng Việt và Chăm nằm trong hai vùng ảnh hưởng khác nhau của văn minh Ấn - Trung. Để từ đó, cũng hình thành nên biên giới quốc gia giữa Đại Việt và Chăm-pa trên đất Quảng Bình hiện nay, và trở thành lằn ranh giao thoa của hai hệ tư tưởng lớn ở phương Đông trên phạm vi khu vực.
Gần như trong cùng một thời điểm, Đại Việt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Nho - Lão, cùng với sự áp đặt đồng hóa của đội quân xâm lược phương Bắc; Chăm-pa tiếp nhận Hindu giáo theo con đường truyền bá dựa trên mối quan hệ thương mại đường biển diễn ra trong hòa bình. Chính vì vậy, khi Đại Việt tiếp nhận văn hóa Trung Hoa trong tinh thần đề kháng Hán, thì Chăm-pa ảnh hưởng văn hóa Ấn một cách tự nhiên và tự nguyện trong bối cảnh giao tiếp từ thương trường.
Sự khác nhau này không khỏi làm nên sự dị biệt trong quá trình tiếp biến để hình thành nên tính cách dân tộc. Tuy vậy, suốt quá trình từ cận cư đến cộng cư trên bước đường di trú về Nam của cư dân Việt, sự giao lưu văn hóa tất yếu giữa Chăm - Việt đã không tạo nên những cú shock văn hóa đáng kể. Sở dĩ có được điều này, theo chúng tôi chính là nhờ chiếc cầu nối Phật giáo (giữa Nho - Lão - Phật trong xã hội Việt, với Hindu – Islam - Phật trong cộng đồng Chăm thì điểm gặp gỡ chính là Phật giáo)[1].
Đặc điểm mang tính quy luật về chiều thổi của nhiệt đới gió mùa ở khu vực Đông Nam Á, đã dẫn dắt những thương nhân Ấn Độ lưu lại dài ngày trên các cửa cảng Chăm-pa, trong những đoàn thuyền buôn bán ấy, luôn có mặt các giáo sĩ Hindu và tu sĩ Phật giáo. Họ là đối tượng để giải quyết những yêu cầu về mặt giao dịch văn bản; tổ chức cầu an cho những thủy thủ qua những chuyến hải hành dài ngày; kết hợp truyền bá văn hóa và tôn giáo Ấn đến các nước khác. Chính vì vậy, không có gì nghi ngờ, Phật giáo đã có mặt từ sớm cùng với các thương thuyền Ấn từ những thế kỷ đầu Công nguyên.
Chăm-pa là một trong những vương quốc ở Đông Nam Á nằm trong khu vực Ấn Độ hóa từ những ngày đầu hình thành lịch sử của mình, nhưng trong từng triều đại khác nhau, Ấn giáo và Phật giáo luôn có tầm ảnh hưởng đến tầng lớp lãnh đạo của vương quốc này, dưới những mức độ và tính chất không giống nhau. Mặc dù, Ấn giáo trong suốt lịch sử vương quốc Chăm, chưa bao giờ suy yếu hay biến mất, nhưng, vẫn có những triều đại Phật giáo được đề cao mang tầm ảnh hưởng lớn, hoặc song song tồn tại cùng Ấn giáo, trong niềm tín mộ của cả giới quý tộc lẫn dân gian.
Trên lĩnh vực kiến trúc và tượng thờ, nhiều tác phẩm đẹp, quy mô và quý giá liên quan đến Phật giáo (kiến trúc, tượng thờ, trang trí…) có mặt trong nhiều triều đại, trong đó, thời Indrapura (Đồng Dương) đã đặt một dấu ấn quan trọng của Phật giáo trong lịch sử Chăm-pa. Không chỉ trung tâm Đồng Dương ở Quảng Nam đã để lại một di sản (dù hiện nay chỉ còn là phế tích) đồ sộ về kiến trúc đền tháp, tu viện Phật giáo, tượng thờ Phật và các vị Bồ-tát.., mà địa bàn ảnh hưởng của Phật giáo vào thời này đã trải dài ra phía bắc ở vùng Thừa Thiên, Quảng Trị và nhất là ở Quảng Bình.
 Những di tích, di chỉ quan trọng và mật tập trên đất Quảng Bình hiện nay đã phản ánh chân thực tầm ảnh hưởng có tính khuynh loát của Phật giáo trong đời sống tinh thần của xã hội Chăm-pa thời bấy giờ.
  1. Những dấu ấn Phật giáo tiêu biểu ở Quảng Bình thời Chăm - Pa
Nếu phục dựng hình ảnh đặc trưng của Phật giáo ở các tiểu quốc Chăm qua bi ký, di tích, và các tác phẩm điêu khắc, chúng ta có thể thấy chúng trải dài liên tục qua nhiều thế kỷ và phân bố nhiều nơi[2].
Giai đoạn từ thế kỷ IV cho đến thế kỷ VII, hệ thống các tác phẩm điêu khắc và di tích liên quan đến Phật giáo đã phản ánh sự xuất hiện khá phổ biến của hệ phái Tiểu thừa (Hinayana). Từ thế kỷ thứ VIII trở về sau, hệ phái Đại thừa (Mahayana) hoạt động mạnh hơn. Phật viện Đồng Dương ở Quảng Nam được dựng vào cuối thế kỷ IX [875] là một di tích Phật giáo quan trọng vào hàng bậc nhất ở Đông Nam Á[3]. Chính vì vậy, nếu nói đến những nét son rực rỡ nhất trong quá trình phát triển Phật giáo ở vương quốc Chăm-pa, không thể không nhắc đến triều đại Indrapura (tk IX - X).
 Những di tích Phật giáo phân bố từ Quảng Ngãi (thành Châu Sa) cho đến vùng cực bắc vương quốc Chăm-pa trong thế kỷ IX - X, ngoài thánh địa trung tâm Đồng Dương ở Quảng Nam, thì Quảng Bình là một chứng cứ đầy thuyết phục về vai trò và vị trí của Phật giáo trong giai đoạn này.
Trước tiên phải kể đến hai di tích Phật giáo quan trọng ở Quảng Bình thời Chăm-pa là Đại Hữu và Mỹ Đức. Đây là những nơi đã được Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp khảo sát và tổ chức khai quật khảo cổ học từ đầu thế kỷ XX [1923 – 1925]. Số lượng các di tích, di vật, quan trọng và cực kỳ quý giá, mà các nhà khoa học thời bấy giờ đã mô tả và thống kê, có thể giúp chúng ta phác họa được hình ảnh Phật giáo đầy ấn tượng ở tiểu quốc Chăm vùng cực bắc đương thời:
2.1. Di chỉ Đại Hữu
- Đây là một nhóm tháp gồm 3 đơn nguyên kiến trúc gạch. Mặt bằng hình vuông cạnh 3,5 m. Nội dung bi ký ở di tích này đã cung cấp những chứng liệu cho chúng ta biết sự hiện diện của một bức tượng Ratna-Lokesvara bằng bạc quý giá được hiến cúng nơi này, cùng với một địa điểm hành hương có tên là Ratnapura (qua nội dung bi ký được khắc vào thế kỷ X, dưới triều đại của vua Jaya Simhavarman). Ngoài ra ở đây, các nhà khảo cổ còn tìm thấy những pho tượng được đúc hay tạc trên chất liệu đồng và đá, cùng một số trang sức bằng vàng và bạc.
- Tượng Padmapani (Bồ-tát Liên Hoa) cao 0,97m tạc trên đá sa thạch. Tượng được tạo hình trong tư thế đứng, hai tay cầm hai búp sen đặt trên hai trụ đỡ. Búi tóc của Ngài tạo hình theo kiểu Jata-mukuta và thiết trí giữa đỉnh hình tượng Phật A Di Đà. Tác phẩm này được xác định niên đại khoảng cuối thế kỷ IX, vốn được trưng bày tại Bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng. Rất tiếc là một số di vật quý giá ấy đã bị mất cắp vào năm 1988.
- Tượng Phật bằng đồng, đứng trên tòa sen, cao 0,44m, hai tay dang trong tư thế bắt ấn vô úy (vitarva-mudra), tóc xoắn thành ba tầng, có con mắt thứ ba trên trán (huệ nhãn/urna). Tượng có niên đại khoảng thế kỷ IX-X. Tác phẩm này có giá trị nghệ thuật cao, đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh.
- Tượng đồng pha bạc thể hiện chân dung Bồ-tát Quán Thế Âm  (Avalokitesvara) dáng nam thần, cao 0,74m. Tượng tạo hình trong tư thế đứng trên tòa sen, tay Ngài cầm bình tịnh thủy (kamadalu). Tượng có niên đại khoảng thế kỷ IX-X.
2.2. Di tích Mỹ Đức
Đây là một nhóm tháp chỉ còn là phế tích, gồm 3 ngôi tháp gạch, có cùng kích thước với cụm tháp ở Đại Hữu. Vào thời điểm khai quật (đầu thế kỷ XX), các nhà nghiên cứu phát hiện một số hiện vật quan trọng:
- Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm có hình dạng nam thần được tạc trên đá sa thạch (sandstone). Pho tượng này tuy đã bị gãy hai tay, nhưng vẫn được giới mỹ thuật đánh giá là một trong những tác phẩm điêu khắc Phật giáo đẹp nhất trong di sản nghệ thuật tạo hình Chăm-pa. Kiệt tác này hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Guimet (Pháp).
- Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm có hình dạng nữ nhân (từng được trưng bày tại Bảo tàng Chăm ở thành phố Đà Nẵng, đầu tượng đã bị đánh cắp năm 1988). Theo nhận xét của Trần Kỳ Phương: “Trong hai pho tượng sa thạch tìm thấy tại Mỹ Đức, pho thứ nhất cao 1,37m, là một kiệt tác của nền điêu khắc Chàm. Đây là một pho tượng Đức Bồ-tát Quan Thế Âm trong thân nam. Tượng đã bị gãy mất hai tay. Ngài búi tóc kiểu jata-mukuta như pho tượng nữ Quán Thế Âm ở Đại Hữu, trên tóc có tượng Phật A Di Đà ngồi; gương mặt đẹp, trang nghiêm với bộ râu mép dày che kín môi trên. Ngài mặc một chiếc dhoti (váy đàn ông) dài đến gót chân, có một vạt trước buông thỏng xuống, chiếc dhoti được thêu dệt hoa văn rất đẹp. Tượng thuộc phong cách Đồng Dương, cuối thế kỷ IX. Có thể coi pho tượng này là một cặp với pho tượng nữ Quán Thế Âm ở Đại Hữu, một tượng nam và một tượng nữ”[4].
- Một số tượng nhỏ đúc bằng đồng (13cm, 14cm, 17cm..). Trong đó, có một pho tượng nhỏ cao chỉ 0,14m, nhưng thể hiện một trình độ nghệ thuật điêu luyện. Đây là tượng Ngài Quán Thế Âm đang ngồi trên tòa sen theo tư thế rajasana, hai tay đặt trên gối, bắt ấn vô úy. Sự thể hiện một cách tinh tế trong tác phẩm kích thước nhỏ bằng đồng, đã phản ánh một trình độ cao trong nghệ thuật tạo hình, cũng như kỹ thuật đúc đương thời của những nghệ nhân trên đất Chăm. Hai pho tượng còn lại cũng nằm trong nhóm tượng được phát hiện ở Mỹ Đức, cũng là tượng Ngài Quán Thế Âm, phong cách tạo hình giống với pho tượng trên. Hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngoài những pho tượng vừa trình bày ở trên, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy ở di chỉ Mỹ Đức một số mảnh bia đá viết theo văn tự Sanskrit nói về đấng cứu khổ Quán Thế Âm.
- Một di chỉ khác cách Mỹ Đức khoảng 8km về phía Bắc (xã Thủ Thu?), người ta cũng phát hiện được một tác phẩm điêu khắc Ngài Quán Thế Âm bằng sa thạch và đôi bàn chân của một pho tượng bằng đồng (tác phẩm này hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh.
2.3. Di tích động Phong Nha
- Đây là một di tích Phật giáo quan trọng đã được phát hiện từ đầu thế kỷ XX qua việc tìm thấy những bệ thờ bằng gạch, nhất là những tượng Phật bằng đất nung có kích thước rất nhỏ dùng để đeo, hoặc mang theo bên mình, có niên đại thế kỷ IX-X. “Những tiểu tượng này thường được tín đồ Phật giáo cúng dường vào những ngôi chùa để cầu phước. Các nhà nghiên cứu thì cho rằng động Phong Nha là nơi ban phát những ngẫu tượng nhỏ này cho các tín đồ Chăm đến hành hương tại đây”[5].
- Vào tháng 3 năm 2008, các nhà khoa học đã phát hiện những dấu tích văn tự theo dạng Sanskrit phối hợp với dạng chữ Chăm cổ trên thành động nhũ đá Phong Nha. Với những phát hiện mới và quan trọng này, đã hé lộ nhiều thông tin đáng quan tâm nhằm làm rõ thêm di tích Phật giáo Chăm trong thạch động thuộc di sản thế giới[6]. Tuy nhiên, để có thể công bố bản dịch chính xác, cần có thời gian giải mã những yếu tố Chăm cổ kết hợp trong lớp văn tự mà hiện nay không còn mấy ai hiểu thấu đáo[7].
- Tấm bia đá sa thạch ở Ròn mà các nhà nghiên cứu phát hiện cũng được viết bằng văn tự Sanskrit, nhắc đến việc xây dựng điện thờ Phật (Buddhist Vihara). Tấm bia bị vỡ chỉ còn sót lại bốn dòng chữ. F. Huber[8] khi nghiên cứu văn tự ở hiện vật này đã cho rằng: dạng chữ khắc ở tấm bia nằm trong khung thời gian từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ thứ X, dưới triều đại Indrapura.
Trên vùng đất phía cực bắc vương quốc Chăm-pa còn một số di tích khác như Lạc Sơn, Kẻ Nai, Kẻ Đôi, Đồng Chùa, Chùa Hang, Ròn…, đều lưu lại nhiều hiện vật không toàn vẹn như tượng Phật, tượng Bồ-tát, phù điêu đá, bi ký…, góp phần làm sáng tỏ vị trí quan trọng của Phật giáo ở đất Quảng Bình.
  1. Phật giáo vùng cực bắc Chăm – Pa dưới triều đại Indrapura
Triều đại Indrapura mà vùng ảnh hưởng của nó lan tỏa từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi đã từng tồn tại ít nhất trong vòng một thế kỷ (từ cuối thế kỷ IX cho đến cuối thế kỷ X). Những gì mà chúng ta biết được khá rõ về giai đoạn này là sự phản ánh nét hưng thịnh của Phật giáo một cách đậm đà và sâu rộng trong giới lãnh đạo lẫn thần dân thời bấy giờ.
Indravarman I là người đăng quang ngôi vua đầu tiên của triều đại Indrapura. Ông ta có tên riêng là Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin. Ngoài ra, ông còn được gọi với các danh xưng: Abhiseka và tên phong tặng sau khi ông băng hà là Paramabuddhaloka. Vợ ông là hoàng hậu Rajakula Haradevi cũng thuộc dòng dõi quý phái.
Cha của ông ta là Bhadravarman cũng như ông nội là Rudravarman đều là những vị vua của các triều đại trước đó. Vì vậy, Idravarman I xuất thân chính thống từ dòng dõi quý tộc để trở thành người dựng nên triều đại Indrapura.
Indrapura tồn tại trong vòng gần 1 thế kỷ (875 - 972). Chung quanh Indrapura là các tiểu vương quốc khác, một số đã được thâu tóm dần từ quyền lực của Indravarman I.
Qua các văn khắc phát hiện được ở vùng Đồng Dương như: Bo-Mu’ng (nam Đà Nẵng), Phú Thuận (tây bắc sông Thu Bồn) và An Thái (gần Chiên Đàn, đông nam thánh địa Đồng Dương), chúng ta thấy có mối liên hệ của Indravarman I với Châu Sa, tòa thành nằm cạnh một con sông ở Quảng Ngãi[9].
Bản văn khắc tìm thấy ở phía Bắc Quảng Bình trong cùng thời kỳ, được xác định từ cuối thế kỷ IX, nội dung đề cập mốc giới của sự mở rộng ảnh hưởng về phía Bắc một cách mạnh mẽ cùng với sự hưng thịnh của Phật giáo, mà Quảng Bình được thừa nhận là một trung tâm lớn bên cạnh Đồng Dương thời bấy giờ.
Indravarman I là người rất sùng đạo Phật. Sự bày tỏ niềm tin mạnh mẽ của ông ta đã phản ánh một cách khá rõ nét trong văn khắc tìm thấy ở Đồng Dương (Quảng Nam). Cha của Indravarman I là Bhadravarman cũng là tín đồ sùng đạo Phật không kém[10].
Sự trải rộng quyền lực dưới thời Indravarman I đã phản ánh một cách rõ nét trong các bi ký phân bố từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi: Đồng Dương, Hóa Quê, Non Nước, Bàn Lanh (Quảng Nam); Châu Sa (Quảng Ngãi); Nham Biều, Hà Trung (Quảng Trị); Bắc Hà, Mỹ Đức, Đại Hữu, Ròn, Phong Nha (Quảng Bình). Tất cả gần như xuất hiện trong cùng một giai đoạn lịch sử.
Kế vị indravarman I là Jaya Simhavarman. Vị vua này tuy không trực tiếp xây dựng các cơ sở Phật giáo quy mô, nhưng vào thời đại ông trị vì, ít nhất đã có 2 Vihara (đền thờ Phật) được kiến tạo công phu và nổi tiếng về tượng thờ và điêu khắc: 1 ở Đại Hữu và 1 ở Mỹ Đức (Quảng Bình). Bên cạnh đó, ông cũng nâng đỡ các cơ sở Civa giáo, mặc dù bản thân vị vua này lại có thiên hướng sùng bái thần Visnu.
Riêng với Bhadravarman - vị vua kế vị Jaya Simhavarman, người ta nhớ đến một nội dung văn khắc trên bia đá ca ngợi vị vua Mahindravarman, người đã có công xây dựng cơ sở thờ phụng Avalokitesvara (Quán Thế Âm Bồ-tát).
  1. Một số nhận định
Nguồn gốc cũng như dòng chảy lịch sử của vương quốc Chăm-pa luôn hiện hữu những thăng trầm, xáo trộn và bất thường trong cả sự kiện lẫn cấu trúc xã hội. Cho đến bây giờ, giới nghiên cứu Chăm-pa học vẫn chưa thống nhất với nhau nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử, xã hội, nghệ thuật, tôn giáo…, cũng như có không ít kết quả nghiên cứu của họ về nhiều chủ đề khác, vẫn chưa được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, có một vấn đề mà ai cũng đồng thuận, đó là đời sống tinh thần của xã hội Chăm-pa, Hindu giáo luôn đóng vai trò chủ chốt và chi phối đến nhiều hoạt động khác liên quan đến tư tưởng, nghệ thuật, văn học, kiến trúc, thậm chí là kinh tế và sinh hoạt vật chất. Điều đáng nói ở đây là bên cạnh sự lấn át của Civa giáo trong cơ cấu tam thần trong đức tin người Chăm, thì Phật giáo vẫn luôn có mặt và hiện hữu ở những mức độ khác nhau tùy theo từng triều đại, cũng như thiết lập sự kết nối liên tục trong suốt lịch sử của họ, trước khi có sự xâm nhập của Islam (Hồi giáo) hoặc Bani (một dạng Hồi giáo đã bị Chăm hóa). Tính uyển chuyển và mở rộng sự hòa hợp của mình trong đời sống tinh thần của đại chúng, đã khiến Phật giáo có điều kiện thuận lợi để tồn tại trong hệ thống tín ngưỡng dân gian. Nếu ở Đại Việt, ông Bụt hay Phật mẫu có mặt trong từng ngõ ngách của chùa miếu làng xã, thì ở xã hội Chăm sự tổng hợp đức tin giữa bà mẹ xứ sở Poh Nagar với hình ảnh của vị Bồ-tát trong đạo Phật cũng có những sự gần gũi khiến người Việt khi đến đây đã mở lòng tiếp nhận nhanh chóng hình tượng này, khi bên cạnh họ, phần lớn là những vị thần Hindu giáo xa lạ và người Việt tìm cách xa lánh.
Rọi chiếu từ triều đại Lý - Trần trong lịch sử Việt, Phật giáo đã trở thành tư tưởng chủ đạo trong mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần, kể cả những quyết định sống còn của quốc gia, thì ở vương quốc Chăm triều đại Indrapura, Phật giáo dường như cũng có một vai trò như thế. Người ta gọi Trần Nhân Tông là Phật hoàng thì Indravarman I của Chăm-pa cũng đã từng mang vương hiệu Paramabuddhaloka. Nếu Phật giáo dưới triều đại Lý - Trần của Đại Việt dù được tôn sùng từ triều đình đến bá tánh, thì Nho giáo, Lão giáo vẫn có chỗ để sống chung và tương hợp; Phật giáo cũng đã phát huy tính chất ấy dưới triều đại Indrapura trên đất Chăm-pa, khi Hindu giáo mà đặc biệt là Civa và Visnu vẫn hiện hữu vững chãi trong đời sống xã hội đương thời.
Phật giáo ở Chăm-pa qua những gì còn lại cho đến hôm nay đã phản ánh sự hiện diện của nhiều tông phái như Nguyên thủy, Đại thừa, kể cả “Mật tông và tư tưởng Kim Cương thừa/Vajrayana từng được truyền bá tại vương quốc này mà bia An Thái (Quảng Nam) có niên đại đầu thế kỷ X đã đề cập”
Những tác phẩm điêu khắc tìm thấy ở Quảng Bình cũng như ở Đồng Dương (Quảng Nam) “mang những ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Hoa (nhất là miền Hoa Nam, bao gồm Vân Nam, Tứ Xuyên...) mà nhiều nhà nghệ thuật đã chỉ ra. Chúng là những tác phẩm được sáng tác tại bản địa, nhưng mang những yếu tố ngoại lai trong kỹ thuật chế tác cũng như thủ pháp tạo hình”[11].
Nếu chỉ tính riêng các di tích Phật giáo Đại thừa trên đất Chăm, ít nhất cũng có 11 nơi cần nhắc đến. Điểm có niên đại sớm nhất được tìm thấy ở Phan Rang (829 AD) và di tích muộn nhất được phát hiện ở Mỹ Sơn vào thế kỷ XII. Các di tích còn lại đều thuộc triều đại Indrapura, trong đó có 4 di tích được xây dựng dưới thời Indravarman I, 2 di tích dưới thời Jaya Simhavarman, và 2 di tích dưới thời Bhadravarman[12].
Như vậy, nét son rực rỡ nhất của Phật giáo dưới thời Chăm-pa, mà những kiệt tác nghệ thuật trong điêu khắc tượng Phật và các vị Bồ-tát, cũng như lịch sử và những dòng bi ký còn lưu lại đến ngày nay đã cho thấy đất Quảng Bình chính là một trung tâm Phật giáo quan trọng dưới thời vương quốc Chăm-pa.
 Khi nói đến Đồng Dương hay triều đại Indrapura (thế kỷ IX-X) không thể không nhắc đến đất Quảng Bình như một chứng cứ lẫn điểm nhấn quan trọng vào hàng bậc nhất, thể hiện rõ qua các di tích và việc thờ phụng Phật trên đất Chăm-pa.

NNC. Nguyễn Hữu Thông 
Nhà nghiên cứu Văn hóa, nguyên Phân viện trưởng Phân viện Văn hóa Nghệ Thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế
Tài liệu tham khảo:
  1. Anne- Valérie Schweyer [1999]: La vaisselle en argent de la dynastie d’Indrapura [Quang Nam, Viet Nam]. Bulletin de l’École Francaise d’Ẽxtrême Ỏrient).
  2. Bảotàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh [1994]: Sưu tập hiện vật Chăm-pa.
  3. Himanshu P. Ray [1994]: The Winds of Change Buddhism and Maritime Links of Early South Asia Delhi, Oxford University Press, Bombay Calcutta Madras.
  4. Emmanuel Guillon [1994]: Hindu-Buddhist Art of Vietnam. Treasures from Champa. Thailand, Amarin Printing and Publishing Public Co.Ltd.
  5. J. Boisselier [1963]: La Statuaire du Champpa. Recherche sur les cultes et l’iconographie, Paris, P E.F.E.O, LIV.
  6. Jean- Francois Hubert [2005]: The Art of Champa (Translation: Anna Allanet) Parkstone Press International.
  7. “Passage to India” - in The New York Review of Book , Volume 51, No 19, December 2002 (bản dịch Đỗ Kim Thêm).
  8. R.C Majumdar [1985]: Champa, History & Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Fareast 2nd-16A.D. Dehli. Gian Publ House.
  9. Trần Kỳ Phương: Di tích Phật giáo Chăm-pa tại Quảng Bình (Bản đánh máy của tác giả).
  10. Will Durant [1997]: Lịch sử văn minh Trung Hoa (Bản dịch Nguyễn Hiến Lê), Nxb. Văn Hóa, Hà Nội.
[1] Nói xa hơn trong bối cảnh văn hóa phương Đông, thay vì trình bày mối quan hệ có tính chất toàn diện giữa hai nền văn minh Trung - Ấn, người ta lại thường muốn nhấn mạnh đến vai trò của tôn giáo như một lối dẫn quan trọng tạo nên hiện tượng này: “Một điều chắc chắn, tôn giáo là nguồn gốc chủ yếu trong sự tiếp xúc giữa Ấn Độ - Trung Quốc và Phật giáo là trọng tâm cho những giao lưu giữa con người và tư tưởng hai nước. Nhưng Phật giáo không chỉ giới hạn trong phạm vi tôn giáo, mà còn gây tác động trên các lĩnh vực thế tục khác như khoa học, toán học, văn chương, ngôn ngữ, kiến trúc, y khoa và âm nhạc… [“Passage to India” in The New York Review of Book , Volume 51, No 19, December 2002, tr. 2 (Bản dịch Đỗ Kim Thêm) Will Durant khi nghiên cứu văn minh Trung Hoa đã từng có nhận xét: Ở thế kỷ III và IV, đạo Ky Tô làm thay đổi văn hóa và nghệ thuật các xứ trên bờ Địa Trung Hải, thì cũng vào khoảng đó, đạo Phật thực hiện được một cuộc cách mạng trong đời sống Trung Hoa về tín ngưỡng và thẩm mỹ quan. Đạo Khổng vẫn còn giữ trọn quyền thế trong khu vực chính trị, còn đạo Phật kết hợp với đạo Lão chiếm ưu thế về nghệ thuật, kích thích các nghệ sĩ Trung Hoa bằng các đề tài, biểu tượng, phương pháp và hình thể từ Ấn Độ truyền sang. (Will Durant [1997], Lịch sử văn minh Trung Hoa[bản dịch Nguyễn Hiến Lê], Nxb. Văn Hóa, Hà Nội, tr.191.
Ở Đông Nam Á, Phật giáo đã tỏa rộng ảnh hưởng nhanh chóng và đầy tính thuyết phục của mình qua tuyến thương mại biển: Trong bối cảnh Ấn Độ, câu hỏi đặt ra cũng là một cách giải thích sự bành trướng hệ thống thương mại chưa từng thấy trong thời sơ sử. Thời kỳ hậu Mauryan được ghi nhận bởi sự tăng lên về mặt số lượng các trung tâm đô thị và cửa cảng ở bán đảo Ấn Độ; với một vùng ven duyên hải mở rộng, mạng lưới trao đổi ven biển và thương mại từ rất lâu được xem như chất xúc tác trong sự thay đổi xã hội (Himanshu P. Ray [1994]: The Winds of Change Buddhism and Maritime Links of Early South Asia, Delhi, Oxford University Press, Bombay Calcutta Madras, p.121).
 
 
[2] Trong bài viết về triều đại Indrapura (The Dynasty of Indrapura) (in  Anne- Valérie Schweyer [1999]: La vaisselle en argent de la dynastie d’Indrapura [Quang Nam, Viet Nam]. Bulletin de l’École Francaise d’Ẽxtrême Ỏrient), tác giả Anne - Valérie Schweyer đã thống kê ít nhất có đến 11 di tích Chăm-pa liên quan đến Phật giáo. Di tích cổ nhất được tìm thấy ở Phan Rang (829 A.D) và muộn nhất là ở Mỹ Sơn vào thế kỷ XII, đã cho chúng ta biết có những Vihara (đền thờ Phật) và tượng Phật đã được dựng cùng thời với các di tích liên quan đến Civa. Những di tích còn lại đều thuộc triều đại Indrapura, đã chứng minh sự hiện diện của Phật giáo và ảnh hưởng to lớn của nó dưới triều đại này.
[3] Trần Kỳ Phương, Di tích Phật giáo Chăm-pa tại Quảng Bình (bản đánh máy của tác giả, tr. 4).
 
[4] Trần Kỳ Phương, tlđd, tr.6
[5] Trần Kỳ Phương, tlđd, tr.7.
[6]Chúng tôi đã tham dự trong thành phần của đoàn khảo sát gồm: TS.Thành Phần, TS.Trần Đình Lâm, GS.TS Takashima Jun, PGS.TS Sawada Hideo, TS.Shine Toshihiko thuộc Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ & Văn hóa châu Á và châu Phi. Việc phát hiện bản văn khắc này đã góp phần khẳng định sự hiện hữu của những hoạt động tâm linh của thần dân vương quốc Chăm-pa ở di tích động Phong Nha.
[7] Trên thực tế, chúng còn bị một lớp ký tự hiện đại do khách du lịch phủ chồng lên văn bản gốc.
[8] R.C Majumdar [1985], Champa, History & Culture of an Indian Colonial Kingdom in the Fareast 2nd-16A.D. Delhi. Gian Publ House, p.129-223.
 
[9] Anne- Valérie Schweyer [1999]: La vaisselle en argent de la dynastie d’Indrapura [Quang Nam, Viet Nam]. Bulletin de l’École Francaise d’Extrême- Orient, p.345-351.
[10] Tuy vậy, vào đương thời, Indravarman I cũng vẫn tiếp tục hỗ trợ hoạt động tín ngưỡng thờ Civa. Cho nên, sự tôn sùng Phật giáo của Indravarman không thể xem như lý do chi phối đến toàn bộ vương quốc của ông.
 
[11] Trần Kỳ Phương, tlđd, tr.9.
[12] A.V Schweyer: tlđd, tr.4.