Phan Thạnh
ThS.NCS Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
- Bối cảnh xã hội vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII
Sau thời gian thịnh trị, nhà Lê bắt đầu suy yếu và cuối cùng Mạc Đăng Dung cướp ngôi, lập ra nhà Mạc. Vua Lê được sự phò trợ của Nguyễn Kim đã đánh nhà Mạc lấy lại kinh đô. Nhà Mạc phải trốn lên vùng Cao Bằng, mất đi quyền chính thống của nhà nước trung ương. Sau cái chết liên tiếp của người cha Nguyễn Kim và người anh Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng đã nhận thấy mưu đồ của người anh rể Trịnh Kiểm.
Được sự cho phép của vua Lê chúa Trịnh, Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm xứ Thuận Hóa vào năm 1558, sau đó kiêm nhiệm luôn xứ Quảng Nam. Nguyễn Hoàng ra sức vỗ về dân chúng nên trong một thời gian ngắn, Thuận Quảng đã có một nền kinh tế vững vàng, đời sống nhân dân ấm no. Năm 1600, sau khi ra triều cống nạp và đánh dẹp nhà Mạc, Nguyễn Hoàng trở lại Thuận Quảng quyết tâm xây dựng một vương quyền riêng biệt, ly khai khỏi triều đình Lê Trịnh. Kể từ đó hình thành nên hai vùng riêng biệt đối kháng là Thuận Quảng/Đàng Trong và Đàng Ngoài. Hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn đã xảy ra rất nhiều cuộc chiến tranh nhằm thu phục lẫn nhau nhưng sự giằng co ấy đã buộc cả hai phải hưu chiến, tạm thời lấy sông Gianh (Linh Giang) làm địa giới phân liệt lãnh thổ.
Vùng Thuận Quảng trước đây là đất của Chăm-pa, sau cuộc hôn nhân của Huyền Trân công chúa, vùng đất này thuộc về Đại Việt. Kể từ thời nhà Trần, Hồ cho đến nhà Mạc rồi nhà Lê Trung Hưng, vùng đất này đã có sự quan tâm đặc biệt của chính quyền Đại Việt. Tuy nhiên vì các cuộc nội chiến tranh giành quyền lực và sự đan xen thế lực giữa các tập đoàn phong kiến nên vùng đất này chưa thật sự phát triển. Mãi đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm và kiêm quản thì vùng Thuận Quảng - Đàng Trong mới thật sự khởi sắc.
Chính quyền chúa Nguyễn muốn tồn tại thì phải luôn sẵn sàng đối phó với chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Việc tạo dựng một thế lực vững vàng không còn cách nào khác là mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Sau Nguyễn Hoàng, các đời chúa kế nhiệm đều đã tiếp tục thực hiện chính sách an dân, mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Năm 1757 chúa Nguyễn Phúc Khoát hoàn thành công cuộc Nam tiến và hoàn thiện gần như bản đồ Việt Nam ngày nay.
Thành phần cư dân Thuận Quảng lúc ban đầu rất phức tạp. “Ngoài những người chăm lo cày cấy, làm ăn, còn có những người theo nhà Mạc, hoặc khuấy động cho nhà Mạc; những người tù đày, những du đảng, từ các miền Nghệ, Thanh hoặc xa hơn nữa xâm nhập qua các thời đại, đi tìm may mắn ở miền đất mới; những quan, quân bất mãn họ Trịnh hoặc lầm lỗi bỏ chạy vào Nam; những thổ hào, thổ tù cường ngạnh, nhũng nhiễu lương dân; những người Chàm còn ở lại”. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn trong việc ổn định và phát triển cơ nghiệp. Tuy nhiên, bằng những chính sách phù hợp và đúng đắn, Nguyễn Hoàng đã thu phục nhân tâm, kết nối cộng đồng để họ phục tùng vai trò lãnh đạo của mình.
Gần hai trăm năm, Chúa Nguyễn trải qua 9 đời đã xây dựng một vùng Đàng Trong rộng lớn và phát triển toàn diện từ kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự. Sau khi chúa Nguyễn Phúc Khoát chết, chính quyền rơi vào tay Trương Phúc Loan - một kẻ lộng quyền. Kể từ đó, triều chính suy yếu dần, không còn sức quản lý xã hội và chăm lo đời sống nhân dân.
Năm 1771, anh em nhà Tây Sơn nổi dậy cuộc đấu tranh chống lại chúa Nguyễn. Đàng Trong lại lâm vào chiến tranh liên miên. Sau đó, Nguyễn Huệ đã đánh dẹp chúa Nguyễn, chúa Trịnh, vua Lê, thống nhất đất nước từ Bắc đến Nam. Tuy nhiên, triều Tây Sơn chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây Sơn, lên ngôi lấy niên hiện Gia Long vào năm 1802.
Đàng Trong trong hai thế kỷ XVII-XVIII có thể nhận ra ba vùng văn hóa kinh tế rõ rệt, đó là vùng Thuận Quảng, vùng Gia Định và vùng Hà Tiên. Trong đó, vùng Thuận Quảng có một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng bởi đây là trung tâm kinh tế, chính trị của các tập đoàn phong kiến. Đây là điều kiện để Thuận Quảng phát triển có nét riêng biệt so với các vùng lãnh thổ khác.
Thuận Quảng là vùng lãnh thổ có sự đa dạng trong thành phần cư dân tạo nên sự đa dạng trong văn hóa. Điều này vừa là khó khăn, vừa là thế mạnh để tạo nên những biệt sắc vùng Thuận Quảng. Thuận Quảng vừa có nền lịch sử, văn hóa Ấn Độ hóa sâu đậm của cư dân Chăm, vừa có nền văn hóa của người Việt theo chân Chúa vào đây, lại vừa tiếp nhận những văn hóa từ bên ngoài qua việc chấp nhận cho người Hoa - Minh Hương cư trú, và đặc biệt là nền văn hóa văn minh phương Tây qua chính sách kinh tế thương mại.
Một điều đặc biệt tạo nên thành công của chúa Nguyễn đó là ủng hộ Phật giáo. Các chúa Nguyễn rất tín mộ Phật giáo và đã có những động thái cụ thể tích cực để phát triển Phật giáo như xây chùa tháp, tạo tượng, đúc pháp khí, thỉnh cao Tăng nước ngoài, mở giới đàn truyền pháp… Phật giáo dưới thời chúa Nguyễn rất phát triển. Chúa Nguyễn ủng hộ Phật giáo, dùng Phật giáo làm bản lề trong vấn đề tư tưởng của Thuận Quảng là một sự lựa chọn đúng đắn.
Nhờ sự ủng hộ của chính quyền chúa Nguyễn mà Phật giáo xứ Thuận Quảng phát triển mạnh, ngoài việc du nhập các thiền phái còn phát tích hai dòng thiền trên vùng đất này. Phật giáo đã ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Thuận Quảng.
- Phật giáo Thuận Quảng - sự du nhập và phát triển các tông phái
Xứ Thuận Quảng là nơi giao thoa của các nền văn hóa. Ngay từ đầu, chính quyền chúa Nguyễn đã chọn lựa Phật giáo làm bản lề để ổn định tư tưởng Thuận Quảng. Li-ta-na có nhận xét rằng: “Trong tình hình mới này, các nhà lãnh đạo họ Nguyễn cảm thấy cần phải đưa ra một cái gì khác với tín ngưỡng của người Chăm để củng cố các di dân người Việt về mặt tinh thần và tâm lý. Không thể sử dụng Khổng giáo vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình. Tuy nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra một giải pháp hoàn toàn khác biệt với truyền thống người Việt ở phía Bắc. Trong những hoàn cảnh đó, Phật giáo Đại thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu của họ Nguyễn. Phật giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và mặt khác, làm lắng đọng các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề tính hợp pháp của những người cai trị”
[1].
Một điều phải khẳng định rằng, trước thời chúa Nguyễn, Phật giáo đã du nhập và có bề dày tồn tại trên vùng này. Vương quốc Chăm-pa ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Ấn Độ, Phật giáo Chăm-pa chính là Phật giáo của Ấn Độ, Phật giáo truyền thống. Sau khi nhường đất Thuận Quảng cho Đại Việt, cư dân Chăm-pa ra đi nhưng vẫn để lại nhiều dấu tích tồn tại cho đến ngày nay trên vùng Thuận Quảng.
Kể từ lúc Trần Nhân Tông sang Chăm-pa rồi gả công chúa Huyền Trần trở về sau này, Phật giáo Việt đã dần dần du nhập vào vùng Thuận Quảng. Sự hiện diện những ngôi chùa Việt đã được Dương Văn An ghi lại trong Ô Châu cận lục rất rõ ràng. Nhờ vậy mà khi vào trấn nhậm Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đã chủ trương sử dụng ngay Phật giáo để làm đường hướng kết nối nhân tâm.
Được sự ủng hộ của triều đình chúa Nguyễn, các vị danh sư, cao Tăng thạc đức đã chấn tích truyền giáo, khai mở các dòng thiền. Phật giáo Thuận Quảng cũng là nơi giao lưu và hòa nhập các dòng thiền phái khác nhau tạo nên một sắc thái mới.
Theo
Hải Ngoại ký sự của Thích Đại Sán, khi ông đến Thuận Quảng (năm 1695) được chúa Nguyễn Phúc Chu đón tiếp vô cùng nồng hậu: “Nay mong quốc vương triệu thỉnh, lão tăng từ phương xa đến được quốc vương cung kính thân như cốt nhục. Vả lại, thần dân trong nước, đến quy y tam bảo thực là một quốc ưu muốn làm lành rất hiếm có”
[2]. Và ông đã cho biết rằng đa số cư dân Việt tại đây đều tin theo đạo Phật và thờ Phật: “Nay xem người bản quốc, có lòng tin rất kiên cố, chùa chiền khắp xứ, sãi vãi đầy đoàn”
[3]. Điều đó chứng tỏ trước khi Thích Đại Sán đến đây thì phần đông cư dân Việt ở Thuận Quảng đã theo đạo Phật và mộ Phật, chùa chiền được xây dựng rất nhiều, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho các tông phái mới du nhập và phát triển.
Thuận Quảng có nhiều bậc cao tăng như thiền sư Viên Khoan, Viên Cảnh, đặc biệt là thiền sư Hương Hải. Thiền sư Hương Hải thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, là người có công tiếp nối và phục hưng thiền phái này tại Thuận Quảng.
Năm 1665, Thiền sư Nguyên Thiều dòng Lâm Tế từ Trung Quốc sang phủ Quy Ninh (Quy Nhơn) hoằng pháp, được chúa Nguyễn Phúc Tần mời ra Thuận Hóa để giảng kinh. Cũng trong đời chúa Phúc Tần còn có Tổ Giác Phong khai sơn chùa Báo Quốc; Tổ Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm; Tổ Khắc Huyền khai sơn Thiền Lâm Thiền viện (thuộc Thiền phái Tào Động). Năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu cho người sang Trung Quốc mời thiền sư Thạch Liêm Thích Đại Sán sang Thuận Quảng để hoằng pháp. Về sau có thiền sư Minh Hoằng Tử Dung ở Thuận Hóa, khai sơn chùa Ấn Tôn Từ Đàm. Ngài ấn chứng đắc pháp cho thiền sư Liễu Quán, tổ khai lập dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán. Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo sau khi tham dự truyền giới tại giới đàn với thiền sư Thạch Liêm đã vào Quảng Nam, lập chùa Chúc Thánh và khai mở dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh. Dưới thời chúa này Phật giáo Thuận Quảng phát triển mạnh mẽ với những đợt hoằng hóa tiếp sức của các Đại sư người Việt cũng như các Thiền sư Trung Quốc. Riêng tại Thuận Hóa thì “tín ngưỡng Phật giáo Thuận Hóa thời này đã phát triển rất mạnh, “chùa chiền khắp xứ, sãi vãi đầy đoàn”. “Chư thiền tổ từ Trung Quốc sang cũng đã đông đảo. Cả miền núi ở mạn Nam sông Hương đều có thảo am”
[4]. Thích Mật Thể nhận xét rằng: “Trong hơn 200 năm, họ Nguyễn đối với Phật giáo hết lòng sùng thượng, nào dựng chùa, nào đúc tượng, đúc chuông rất nhiều”
[5].
Thế kỷ XVII-XVIII trên vùng đất Thuận Quảng có mặt 5 dòng thiền, gồm: Dòng thiền Lâm Tế, Tào Động được truyền vào từ Trung Quốc; Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam truyền từ Đàng Ngoài vào; Hai dòng thiền nội sinh, phát tích tại vùng đất Thuận Quảng là dòng thiền Liễu Quán và dòng thiền Chúc Thánh.
Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử: do Trần Nhân Tông (1258 - 1308) khai sáng. Qua các đời Tổ Pháp Loa, Huyền Quang thì không có sự truyền thừa trực tiếp nữa. Tuy nhiên, tôn chỉ vẫn được nối tiếp và truyền bá. Khi nghiên cứu về Phật giáo xứ Thuận Hóa, tác giả
Chư tôn thiền đức Phật giáo Thuận Hóa đã nhận xét rằng: “Vùng đất Thuận Hóa lúc này ở đây không những chỉ có cảnh chùa trang nghiêm, các vị Thiền sư đức độ mà người dân vùng Thuận Hóa vốn rất thuần thành với những Lễ hội Phật giáo tưng bừng rộn rã, và tư tưởng Phật giáo thời này của xứ Thuận Hóa chắc chắn phản ánh tư tưởng “Cư trần lạc đạo” (Ở đời vui đạo) của người khai sáng phái thiền Trúc Lâm Yên Tử là vua Trần Nhân Tông”
[6]. Thế kỷ XVII, thiền sư Minh Châu Hương Hải đã khơi lại mạch thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ngài lấy tôn chỉ của thiền phái này để tu tập và hoằng hóa. Hầu hết hoàng tộc chúa Nguyễn và quan lại đều thọ giới với Thiền sư Hương Hải. Tuy nhiên, sự hưng thịnh của thiền phái này cũng không được kéo dài khi chúa Nguyễn Phúc Tần nghi ngờ thiền sư Hương Hải có ý định móc nối với Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn Phúc Tần xa lánh và bắt giam Thiền sư. Năm 1682, được chúa tha, thiền sư Minh Châu - Hương Hải cùng với 50 đệ tử dùng thuyền trốn ra Đàng Ngoài. Kể từ đó, thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vắng mặt tại vùng Thuận Quảng.
Dòng thiền Tào Động: là dòng thiền thuộc một trong 5 tông phái (Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn) phát triển từ Thiền Tào Khê của Lục tổ Huệ Năng (638 - 713), Trung Hoa. Thiền phái Tào Động do 2 Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807 - 869) và Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch (840 - 901) tạo lập. Thiền phái Tào Động truyền vào cả Đàng Trong và Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, được sự thỉnh mời và bảo hộ của các Chúa.
Quốc sư Hưng Liên là thiền sư đầu tiên truyền bá dòng thiền Tào Động vào xứ Thuận Quảng. Nhưng người có công lớn nhất trong công việc truyền bá, tạo sự phát triển cho Thiền phái Tào Động ở Thuận Quảng là Thiền sư Thạch Liêm Thích Đại Sán (1633 - 1704), người Giang Tây, Trung Quốc. Thiền sư Thạch Liêm Thích Đại Sán sang Đại Việt năm 1695, theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, để mở Đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm ở Thuận Hóa và Đại giới đàn tại chùa Di Đà ở Quảng Nam. Đại giới đàn đã truyền giới cho 1400 Tăng sĩ và hàng ngàn cư sĩ Phật tử. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thọ Bồ tát giới với pháp danh Hưng Long. Thạch Liêm đã dạy cho chúa Nguyễn Phúc Chu cách tu tập của một bậc chúa trong cuốn Hộ Pháp Kim Thang Thư. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, thiền phái Tào Động có cơ hội phát triển rất mạnh.
Dòng thiền Lâm Tế: do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (mất năm 866) người Trung Quốc khai sáng. Vào khoảng năm Đinh Tỵ 1677, Thiền Sư Nguyên Thiều Siêu Bạch đời thứ 33 tông Lâm Tế cùng các đệ tử qua Đại Việt. Thiền sư đã dựng chùa Chùa Thập Tháp Di Đà ở phủ Quy Ninh (Bình Định ngày nay). Năm 1683, Ngài ra Phú Xuân lập Chùa Hà Trung và Chùa Quốc Ân, dựng tháp Phổ Đồng (1684). Dòng Lâm Tế được truyền xuống đời 34 thì có thiền sư Minh Hải Pháp Bảo xuất kệ thành lập phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Quảng Nam. Đời thứ 35 có thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán xuất kệ thành lập thiền phái Lâm Tế Liễu Quán ở Thuận Hóa. Về sau, sự truyền thừa của dòng Lâm Tế ở Thuận Quảng được đặt theo hai dòng Liễu Quán và Chúc Thánh.
Dòng thiền Chúc Thánh: Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670-1746), người Phúc Kiến, Trung Quốc sang Đại Việt cùng với thiền sư Nguyên Thiều tham dự giới đàn tại Thuận Hóa năm 1695. Sau khi giới đàn hoàn mãn, thiền sư đã từ Thuận Hóa đi vào Hội An - Quảng Nam để hoằng đạo. Ngài khai sơn chùa Chúc Thánh, thu nhận môn đồn, hóa độ quần chúng. Khi thấy tình hình Phật giáo ở đây, Ngài đã phát kệ truyền thừa, khai sáng ra dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh. Bài kệ truyền thừa:
“Minh thực pháp toàn chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc Thánh thọ thiên cửu
Kỳ Quốc tộ địa trường
Ðắc chính luật vi tuyên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung”.
|
(Hiểu thấu pháp chân thật
Ấn chơn như hiện tiền
Cầu thánh quân tuổi thọ
Chúc đất nước vững bền
Giới luật nêu trước tiên
Giải và hạnh nối liền
Hoa nở cây giác ngộ
Hương thơm lừng nhân thiên).
|
Dòng Chúc Thánh đã có nhiều bậc cao tăng tiếp nối và hóa độ ở Đàng Trong. Nổi bật có thiền sư Diệu Nghiêm Luật Truyền, Minh Giác Kỳ Phương, Toàn Nhật Quang Đài…
Dòng thiền Liễu Quán: Người chấn tích phát kệ khai sáng dòng thiền Liễu Quán là thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán (1667 - 1742). Ngài là sinh năm 1667 tại Phú Yên. Xuất gia với thiền sư Tế Viên ở chùa Hội Tôn - Phú Yên. Năm 1685 ra Thuận Hóa xin học với thiền sư Giác Phong tại chùa Hàm Long Báo Quốc. Năm 1691 trở về lại Phú Yên để chăm sóc cha. Năm 1695 trở lại Thuận Hóa thọ giới Sa di với thiền sư Thạch Liêm. Năm 1697 thọ giới Cụ túc với thiền sư Từ Lâm. Thiền sư Liễu Quán đã đi tham vấn nhiều nơi. Cuối cùng Ngài ra Thuận Hóa tham vấn với thiền sư Minh Hoằng Tử Dung tại chùa Từ Đàm và đã được thiền sư dạy câu thoại đầu Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào?). Sau mấy năm tham cứu, thiền sư Liễu Quán đã ngộ Đạo và được thiền sư Minh Hoằng Tử Dung trao ấn chứng. Sau khi khai sơn chùa Thuyền Tôn ở núi Thiên Thai, ngài xuất kệ hình thành nên dòng Liễu Quán.
“Thiệt tế đại đạo
Tính hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận,
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Một khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chính tông
Hành giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không”.
|
(Ðường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Ðạt ngộ chân không).
|
Dòng Liễu Quán truyền thừa qua nhiều đời, có nhiều cao tăng thạc đức tiếp nối thiền mạch. Dòng thiền đã trở thành nguồn mạch mới cho sự phát triển Phật giáo ở Thuận Quảng nói riêng và cả Đàng Trong nói chung. Đạo hạnh và đạo nghiệp của thiền sư đã có sức vang rất lớn, thu hút rất nhiều người. Thiền phái do thiền sư Liễu Quán khởi xướng đã có sức sống mạnh mẽ, vững vàng không chỉ vì tôn chỉ, phương pháp thiết thực mà điều quan trọng là luôn hướng về dân tộc, đưa Phật giáo gần lại với con người Việt Nam, hòa vào văn hóa chung của dân tộc, góp phần xây dựng đạo pháp song song với sự hùng mạnh của quốc gia. Điều ấy đủ để thấy vai trò lớn lao của thiền sư Liễu Quán với Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XVIII cho đến hôm nay.
Trong quá trình phát triển, các thiền phái đã có sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Dòng thiền Trúc Lâm của Việt Nam và phái Tào Động, Lâm Tế đã chuyển hóa đan xen với nhau tạo nên những thiền phái mới, tiêu biểu là thiền phái Liễu Quán. Không những thế, Phật giáo đã hòa quyện vào tín ngưỡng dân gian Việt Nam để biến thành một tôn giáo của nhân dân, của tất cả cộng đồng cư dân không phân biệt nguồn gốc, xuất xứ cũng như dân tộc. Và ngược lại, chính Phật giáo là cầu nối tâm linh đặc biệt giúp cho sự hòa hợp, hòa quyện văn hóa được diễn tiến một cách vô cùng thuận lợi, từ đó phát huy được tính “từ bi hỉ xả” bao dung rộng lượng trong chính sách đối xử với người Hoa của các Chúa Nguyễn về lâu dài.
- Phật giáo Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII trên phương diện đồng đại - lịch đại
Phật giáo Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII trên phương diện đồng đại: Xứ Thuận Quảng là vùng đất mới. Phật giáo Xứ Thuận Quảng hình thành và phát triển muộn hơn nhiều so với Phật giáo ở Đàng Ngoài. Phật giáo Đàng ngoài có truyền thống lâu đời, thừa hưởng một dòng thiền phát triển cực thịnh dưới triều Lý Trần đó là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo Đàng Ngoài hình hành sớm và thịnh đạt, ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Trải qua nhiều thế kỷ, Phật giáo vẫn là nguồn suối chi phối tâm thức cuộc sống người dân, bên cạnh những tư tưởng khác như Nho giáo, Đạo giáo. Thế kỷ XVII-XVIII, mặc dù có nhiều biến động trong xã hội cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, thế nhưng Phật giáo đều được tầng lớp chính quyền ủng hộ phát triển. Phật giáo Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII không có gì nổi bật. Trong khi đó, Phật giáo Thuận Quảng đã có sự phát triển vượt bậc với sự xuất hiện hai dòng thiền ngay trên đất Thuận Quảng là dòng Liễu Quán do thiền sư Liễu Quán sáng lập và dòng thiền Chúc Thánh do thiền sư Minh Hải Pháp Bảo sáng lập. Hai dòng thiền này đã phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng cho đến hôm nay.
Phía Nam vùng đất Thuận Quảng là vùng đất khai hoang muộn hơn. Trong một thời gian ngắn, các chúa Nguyễn đã khai hoang về phía Nam đến tận vùng đất Nam Bộ. Quá trình khai hoang khai khẩn đến đâu người Việt đều dựng chùa đến đó. Phật giáo vùng đất về phía Nam Thuận Quảng được hình thành bởi những Tăng sĩ Thuận Quảng và tăng sĩ gốc Trung Hoa. Dần dần Phật giáo ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, hòa chung vào văn hóa Phật giáo Thuận Quảng, tạo nên sắc thái mới của Phật giáo phía Nam.
Như vậy, so với Đàng Ngoài thì Phật giáo Thuận Quảng phát triển sau muộn hơn nhưng lại có nhiều phát triển vượt bậc khi hình thành hai dòng thiền lớn. So với vùng đất về phía Nam, Phật giáo Thuận Quảng là cái nôi sinh thành và truyền bá Phật giáo đến vùng Nam bộ. Có thể khẳng định rằng, Phật giáo Thuận Quảng là cửa ngõ để những giá trị tư tưởng Phật giáo Việt từ miền Bắc - Đàng Ngoài truyền vào, tiếp nhận và dung hòa với Phật giáo Chăm, Phật giáo Trung Hoa để truyền đến vùng đất Nam Bộ.
Phật giáo Thuận Quảng trên phương diện lịch đại: Trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm xứ Thuận Quảng thì nơi đây vốn là hai Châu Ô Rí thuộc Chămpa. Cùng với tín ngưỡng Siva và tín ngưỡng bản địa, Phật giáo Chămpa cũng đã phát triển trên vùng đất Ô Rí này. Trong quyển
Royaume de Champa, G.Maspero đã dẫn sách
Nam Hải ký của ngài Nghĩa Tịnh (I’ Tsing) nói rằng vào lúc ngài ghé qua đây, thế kỷ VII, đã thấy “Champa là một quốc gia theo Phật giáo nhiệt thành”. Sách
Tùy thư, chép sử nhà Tùy (589-618) cũng đã viết: “mọi người ở Champa đều thờ Phật. Sách Cựu Đường Thư cũng cho biết thêm: “Ở đây có nhiều người xuất gia theo Phật giáo”
[7]. “Theo
Nam Hải ký quy truyện của ngài Nghĩa Tịnh thì nước Lâm Ấp tức Chiêm Thành đã có Phật giáo, số đông theo Chính lượng phái, có ít người theo Hữu bộ phái”
[8]. “Qua sự tìm tòi, so sánh của các học giả ở Trường viễn đông Bác Cổ, người ta biết được Chăm-pa đã tiếp nhận Phật giáo từ nhiều nước ngoài truyền đến: Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Java, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Trung Quốc. Cũng có nhiều nhà sư các nơi đến hoằng hóa ở Champa”
[9].
Đến năm 1306, đất Ô Rí thuộc về người Đại Việt sau sự kiện gả công chúa Ngọc Hân cho vua Chăm là Chế Mân. Phật giáo của miền Bắc đã theo dân Kinh Bắc, Hoan, Ái vào đây, dung hóa với Phật giáo Chămpa và tín ngưỡng bản địa để trở thành Phật giáo Thuận Hóa buổi đầu.
Vào năm 1555, Dương Văn An nhuận sắc sách Ô Châu cận lục, trong đó nói rõ phong tục, tín ngưỡng, chùa quán ở Tiên Bình và Thuận Hóa. Ông đã kể rất nhiều chùa ở đây như chùa Sùng Hóa, Kính Thiên, Đại Phúc, Thiên Mụ…
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm Thuận Hóa sau đó kiêm Quảng Nam thì số lượng chùa chiền tăng lên gấp nhiều lần. Phật giáo được sự hộ trì của chính quyền chúa Nguyễn nên phát triển rực rỡ. Nhiều bậc cao tăng nước ngoài vào hoằng hóa như thiền sư Nguyên Thiều, thiền sư Thạch Liêm Thích Đại Sán, Thiền sư Giác Phong, thiền sư Từ Lâm… Đặc biệt sự hình thành hai tông phái trên đất Thuận Quảng là thiền phái Liễu Quán do thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán và thiền phái Chúc Thánh do thiền sư Minh Hải Pháp Bảo khai sáng. Trong hai thế kỷ, Thuận Quảng là kinh đô của Phật giáo với hệ thống chùa chiền, tăng sĩ đông đảo.
Sang thời Tây Sơn, Phật giáo Thuận Quảng đi vào điêu tàn do chính sách của triều Tây Sơn. “Ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ huyện một cái chùa thật to, rất đẹp; rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, đạo đức, ở coi chùa, thờ Phật. Còn những người không xứng đáng thì bắt về làm ăn”
[10]. Đến năm 1789 thì lệnh cấm được bãi bỏ, các chùa lại dần dần được khôi phục. Tuy nhiên “Phật giáo đã bị lệch lạc nhiều”
[11], không còn thuần nhất Phật giáo nữa bởi những tư tưởng có tính chất dân gian xen tạp.
Thế kỷ thứ XIX, khởi đầu từ vua Gia Long (1802-1819), tiếp tục chính sách ưu ái với Phật giáo. Từ đó, Phật giáo Thuận Quảng phát triển rộng rãi; chùa chiền được trùng tu và xây mới, Tăng Ni đông đảo. Hai dòng thiền Liễu Quán và Chúc Thánh là hai dòng thiền chính được truyền thừa từ Thuận Hóa đến Nam Bộ.
Thế kỷ thứ XX, Thuận Quảng là nơi tiên phong cho nhiều đoàn hội thành lập, khởi đầu cho công cuộc chấn hưng Phật giáo như Hội An Nam Phật học ra đời (1932), Đoàn Phật học Đức Dục (1942), Gia đình Phật tử hóa phổ (1944)… Các thành viên thành lập hội gồm Nho sĩ, quan lại, phụ nữ, thanh niên, trí thức tân học đã cùng với Giáo hội Tăng già chuyển Phật giáo Thuận Quảng sang thời kỳ phát triển mới. Phong trào chấn hưng Phật giáo mà cái nôi là Phật giáo miền Trung đã giúp cho Phật giáo Việt Nam mang nhiều màu sắc mới như dùng chữ quốc ngữ để dịch kinh tụng hằng ngày; đưa nhạc lễ vào các khóa hành lễ, cải cách thờ tự; tổ chức các Học Đường theo học phong mới; giáo dục thanh thiếu niên nhi đồng, lập nhà nuôi trẻ mồ côi, lập trường Bồ Đề từ Tiểu đến Trung học, các trường Mầm non Lâm Tỳ Ni… Đặc biệt là cuộc đấu tranh chống phân biệt tôn giáo năm 1963 với nhân tố nòng cốt là Phật giáo miền Trung - Phật giáo vùng Thuận Quảng. Cuộc đấu tranh đã khẳng định vị trí của Phật giáo trong lịch sử tôn giáo Việt Nam và trên thế giới.
Có thể nói rằng, Phật giáo Thuận Quảng có một vị trí quan trọng trong dòng chảy của Phật giáo Việt Nam. Trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo ở vùng Thuận Quảng có nhiều nét đặc sắc và tạo tiền đề để Phật giáo Việt Nam phát triển một cách liên lục, không bị đứt đoạn. Phật giáo Thuận Quảng đã có nhiều đóng góp thiết thực trong thực tiễn đời sống xã hội qua các giai đoạn. Mỗi giai đoạn có một vai trò nhất định, góp phần khẳng định sự phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Với sự hình thành và phát triển, Phật giáo đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân vùng Thuận Quảng. Các bậc Tăng sĩ Phật tử ngoài việc đáp ứng nhu cầu tâm linh đã có nhiều trước tác thể hiện tư tưởng, khả năng tu chứng của mình. Đồng thời, Phật giáo còn ảnh hưởng đến văn học tạo nên dòng văn học Phật giáo có nhiều thành tựu, góp phần phát triển văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Tài liệu tham khảo:
- Li Tana (2016), Xứ Đàng trong- lịch sử, kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17- 18 (tái bản lần 3), Nxb Trẻ, Hà Nội
- Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn học, Hà Nội
- Thích Đại Sán, Hải Tiên Nguyễn Duy Bột và Nguyễn Phương dịch, Nguyễn Thanh Tùng hiệu chú, giới thiệu, (2015), Hải ngoại kỷ sự, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
- Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2010), Chư tôn đức Phật giáo Thuận Hóa, Nxb Văn Hóa Sài Gòn, tr.32.
- Thích Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Tôn giáo, Tôn giáo
- Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[1] Li Tana (2016),
Xứ Đàng trong- lịch sử, kinh tế, xã hội Việt Nam thế kỷ 17- 18 (tái bản lần 3), Nxb Trẻ, Hà Nội, tr.222.
[2]Thích Đại Sán, Hải Tiên Nguyễn Duy Bột và Nguyễn Phương dịch, Nguyễn Thanh Tùng hiệu chú, giới thiệu, (2015),
Hải ngoại kỷ sự, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.78.
[3]Thích Đại Sán,
Hải ngoại kỷ sự, Sđ d, tr.81.
[4] Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2010),
Chư tôn đức Phật giáo Thuận Hóa, Nxb Văn hóa Sài Gòn, tr.32.
[5] Thích Mật Thể (2004),
Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, tr.189-190.
[6] Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2010), Sđ d, tr.28.
[7] Dẫn theo Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm (2006),
Lịch sử Phật giáo xứ Huế (tái bản lần thứ 2), Nxb Văn Hóa Sài Gòn, tr.41.
[8] Hà Xuân Liêm (2007),
Những chùa tháp Phật giáo ở Huế, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,tr.10
[9]Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm (2006), Sđd, tr.48.
[10] Trần Trọng Kim (1971),
Việt Nam sử lược, Nxb Giáo dục, tr.142.
[11]Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm (2006), Sđd, tr.243.