Lý tưởng cao đẹp của người Phật tử tại gia
Người Phật tử nên đến với đạo Phật bằng sự hiểu biết chân chính, tự soi sáng lại chính mình và thấy rằng tất cả mọi hiện tượng sự vật đều nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống, chính vì vậy chúng ta phải sống đạo đức, tôn trọng luật pháp nhằm góp phần làm trong sạch và an lạc cho mình và xã hội.
-“Phật tử chùa Linh Xứng, nguyện noi gương Phật Thích Ca Mâu Ni, dấn thân tu học phước huệ trang nghiêm. Dân tộc nước Việt Nam, phát huy tinh thần mang đạo vào đời, do hai triều đại Lý-Trần sáng lập”.
-“Anh hùng Lý Thường Kiệt khơi nguồn tâm linh mở trang sử mới cho người dân nước Việt. Phật hoàng Trần Nhân Tông đưa đạo vào đời phá trừ mê tín làm rạng rỡ tổ tiên”.
-Người Phật tử chân chính, trước khi làm gì và đi theo quan điểm của ai, chúng ta cần phải tìm hiểu, suy tư chiêm nghiệm, sau khi thấy rõ lợi ích thiết thực, không làm tổn hại người vật, ngay khi đó chúng ta mới tin và bắt đầu thực hành theo.
-Người cư sĩ tại gia sau khi nghe lời Phật dạy, có suy tư quán chiếu xem xét và ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày mà cảm nhận được an lạc hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Từ đó chúng ta thấy rằng lý tưởng của đạo Phật, giúp cho mọi người trưởng thành trong đạo đức, nhờ nhận thức sáng suốt nên biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời, ngay khi đó mới phát nguyện làm người Phật tử chân chính.
-Người Phật tử nên đến với đạo Phật bằng sự hiểu biết chân chính, tự soi sáng lại chính mình và thấy rằng tất cả mọi hiện tượng sự vật đều nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống, chính vì vậy chúng ta phải sống đạo đức, tôn trọng luật pháp nhằm góp phần làm trong sạch và an lạc cho mình và xã hội.
-Người Phật tử sau khi tiếp nhận lời dạy chân chính Phật-đà, quyết sống trung thành với lý tưởng giác ngộ giải thoát, luôn ý thức gương mẫu làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích xã hội, hộ trì Tam bảo trong hiện tại và mai sau.
Lý tưởng cao đẹp người Phật tử tại gia gồm 4 điều và hai câu đối mang tính triết lý sâu sắc, đậm chất văn hóa Phật giáo Việt Nam do hai triều đại Lý-Trần sáng lập. Không chỉ riêng quý Phật tử các đạo tràng Duyên Lành chùa Linh Xứng mà bao gồm quý Phật tử gần xa, có duyên lành nhiều đời, có chí hướng thượng, có niềm tin với chính mình luôn tin sâu nhân quả nguyện noi gương sáng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa đường chỉ lối cho chúng ta, biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Vậy mà, cách nay trên 2600 năm tại đất nước Ấn Độ có một người đã dám từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, và địa vị cao nhất trong xã hội để ra đi tìm cầu chân lý giúp cho mọi người biết cách thoát khỏi khổ đau sinh, già, bệnh, chết. Người ấy đã vượt thoát mọi sự trói buộc của thế gian để sống đời vô ngã vị tha; giúp cho nhân loại biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời, đó chính là Bồ-tát Sĩ Đạt Ta.
Ở đây, chúng ta nên biết rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người giống như tất cả mọi người chúng ta, người cũng được sinh ra từ sự kết tinh của cha và mẹ. Cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Người là Hoàng thái tử Sĩ Đạt Ta chuẩn bị kế thừa ngôi vua nhưng chẵng màng phú quý vinh hoa, vợ đẹp con xinh mà chỉ một lòng tìm ra thân phận của kiếp người để thoát khỏi già, bệnh, chết.
Điểm đặc biệt ở đây Ngài là một con người bằng xương bằng thịt, giống như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, lớn lên Ngài vẫn có vợ có con như tất cả mọi người thế gian. Ngài là một con người đi tu cuối cùng thành Phật để cứu độ chúng sinh, chúng ta cũng là con người nếu ai chịu tu theo lời Ngài chỉ dạy thì ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai. Bởi vì Ngài thường nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thành Phật như Ngài, bởi vì Phật là tính biết sáng suốt ngay nơi thân mỗi người, chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa nhận nên đời đời kiếp sống trong đau khổ lầm mê. Phật là con người như tất cả mọi người, vẫn sống làm việc phục vụ vì lợi ích chúng sinh mà không tham lam, sân hận, si mê dính mắc như người đời.
Thế cho nên trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Bồ-tát Thường Bất Khinh dù bị người mắng chửi, đánh đập nhưng Bồ tát vẫn không buồn, không giận không oán, không ghét không thù mà còn nói rằng: Tôi không dám khinh các người vì các người đều sẽ thành Phật. Bồ-tát Thường Bất Khinh suốt cả cuộc đời chỉ làm một việc nhắc nhỡ mọi người đều có tính Phật sáng suốt ngay nơi thân này mà chẵng tìm cầu đâu xa.
Về mặt thực tế cuộc đời Phật là con người dám buông xả hết tất cả những gì thế gian mong muốn, để dấn thân đóng góp, phục vụ, giúp đỡ, sẻ chia không biết mệt mỏi, nhàm chán bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, giúp cho con người biết cách làm chủ bản thân để cùng nhau chia vui sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống.
Về khía cạnh tâm linh đức Phật giúp cho ta nhận ra tính biết sáng suốt đang tiềm ẩn nơi mỗi người, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy tức là biết, biết mà không dính mắc bị dòng đời cuốn trôi, vậy không phải Phật tính sáng suốt là gì? Tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế, ai nhận ra và trở về sống với chân tâm của mình thì đời đời kiếp kiếp thoát khỏi mê lầm khổ đau.
Trong thế giới loài người, sự hưởng thụ ngũ dục là điều ai cũng đam mê, tham muốn, ham thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp, ngủ nhiều, và các tiện nghi vật chất đầy đủ khác. Đa số con người đều bị trói buộc bởi sự chấp ngã của chính mình nên mới sinh ra tư tưởng chiếm hữu. Chính vì vậy mà thế gian này lúc nào cũng đấu tranh giành giựt theo thói quen tham muốn quá đáng nên bị gió nghiệp si mê chấp ngã cuốn trôi, do đó cứ mãi chìm đắm trong biển khổ, sông mê không có ngày thôi dứt.
Sự sống của con nguời là luôn tìm kiếm hạnh phúc cho thể xác lẫn tinh thần, vậy ai muốn tìm về cội nguồn của an lạc thì ta phải tìm hiểu coi Phật là gì? Là ai? Chúng ta muốn tu học theo lời Phật dạy để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an lạc hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ thì phải biết đức Phật là ai? Tin như vậy là niềm tin chân chính vì có tìm hiểu học hỏi và tu tập. Phật có phải là con người lịch sử hay là một đấng thần linh thượng đế như người cổ xưa đã gán cho hoặc Ngài là một nhân vật huyền thoại không có thật.
Như Lai Thế Tôn là bậc hy hữu và hiếm có nhất trong loài người, là một nhân cách siêu việt về đạo đức tâm linh. Ngài dấn thân phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh mà không biết mệt mỏi, nhàm chán, với tình yêu thương chân thật, bằng trái tim hiểu biết vì tình người trong cuộc sống. Đi ngược lại các truyền thống từ xa xưa, nhiều người cho rằng có một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa mà đấng tối cao đã sắp đặt và tạo ra.
Chính cuộc sống đơn giản đạm bạc cùng với hành động dấn thân vì lợi ích tha nhân, và việc làm cao thượng của Thế Tôn đã làm cho vua cha Tịnh Phạn thời gian đầu hiểu lầm vì chưa hiểu thấu được giá trị cuộc đời, nên nhà vua đã trách móc Ngài rằng:
“Tôi không ngờ có một đứa con hèn hạ và yếu đuối như ông, ông đã làm mất hết phẩm chất danh giá của dòng tộc cao quý từ ngàn xưa cho đến nay mà đấng Phạm Thiên đã ban cho. Ông đã bôi nhọ truyền thống vinh quang tốt đẹp đã có từ mấy ngàn năm nay, để trở thành một kẻ ăn xin thấp hèn mà không chịu thừa hưởng cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ. Ông vô tình phỉ báng sự tôn quý mà đấng Phạm Thiên đã ban cho dòng tộc Sakya của chúng ta. Tại sao ông không chịu tu tập theo truyền thống Bà La Môn để được ăn trên ngồi trước, có kẻ nô lệ phục dịch? Ông đã làm ô nhục dòng dõi vua quan Sát Đế Lợi đã có từ lâu đời”.
“Dạ thưa cha, xin người hãy mở rộng tấm lòng từ bi mà cảm thông và tha thứ cho con. Đây không phải là ăn xin của kẻ thấp hèn nghèo đói, mà là con đường sáng và cao thượng của các vị Bồ Tát. Vì thương xót chúng sinh cứ mãi chìm đắm trong biển khổ sông mê, nên các vị chịu khó, chịu khổ tu tập hành trì, làm chủ bản thân, để phá tan si mê, tối tăm, mờ mịt, giúp mọi người vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống đời bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ”.
Người biết nhận lỗi là người can đảm và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Một đất nước mà từ thứ dân cho đến vua quan làm lỗi mà biết nhận lỗi và sửa sai thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.
Chúng ta khi làm việc lỡ gây tạo tội lỗi với ai thì đối với lương tâm phải biết xấu hổ, như khi ta lỡ lấy của ai vật gì thì phải tự thấy ray rức, xấu hổ với chính mình. Ta phải tự nhủ thầm mình là Phật tử thì không được tham lam, trộm cướp, lường gạt của người, nghĩ như vậy rồi ta sẽ hối hận, ăn năn mà không dám tái phạm nữa.
Chỉ có loài người nhờ có ý thức và sự hiểu biết nên mới xấu hổ. Dù trần truồng nhưng loài súc vật không biết xấu hổ vì sống theo quán tính tập nghiệp. Loài người khi không mảnh vải che thân sẽ rất xấu hổ nên đã phải lấy lá, vỏ cây để che thân khi chưa có văn minh, tiến bộ.
Ngày xưa, hình phạt lõa thể là hình phạt ô nhục nhất của đàn bà. Do đó, những kẻ ăn mặc khiêu dâm, hở hang quá đỗi để chụp hình đăng báo mà không biết xấu hổ là loại người thiếu văn hóa giáo dục. Trong một đất nước mà kẻ trộm cắp, nói dối, lường gạt, thi cử gian lận, dâm ô, chen lấn không xếp hàng, xả rác bừa bãi, nói năng thô bỉ mà không biết xấu hổ thì đó chính là những người thiếu hiểu biết và không có lương tâm.
Nói tóm lại, biết hổ thẹn và xấu hổ là một đức tính tốt. Người biết xấu hổ mới mong tránh được những tội lỗi và mới có thể làm người tốt trong hiện tại và mai sau. Là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết hổ thẹn khi lỡ làm điều gì sai quấy, đó là ta biết tu tâm, sửa tánh.
Người Phật tử chân chính chớ nên can dự và tham gia vào những việc tào lao không lợi ích. Trong gia đình, ngoài xóm làng, nơi làm việc, trong trường học hoặc cả nơi công cộng, chỗ nào cũng có thể xảy ra rất nhiều chuyện tào lao. Nói chuyện tào lao không đem lại lợi ích gì cho chúng ta mà còn làm cho tinh thần bị rối loạn bởi những chuyện chẳng ra gì, do đó làm mất thời gian, có khi còn chuốc họa vào thân.
Một con người khất sĩ dù không có tài sản sở hữu riêng tư, không có quyền cao chức trọng, nhưng tự do tự tại làm chủ bản thân, để chứng minh cuộc đời không có gì phải chiếm hữu mà con người bị bóc lột và tàn sát giết hại lẫn nhau, vì không nghe theo sự phán xét của bề trên. Như Lai Thế Tôn đã thuyết phục được vua cha có cái nhìn cảm thông và bao dung hơn, hiểu biết sâu sắc hơn, bằng trái tim yêu thương bình đẳng, để rồi sau này tên tuổi của dòng họ Thích không bị mai một và mất đi, mà còn vang danh khắp toàn thế giới; vì nhân cách cao thượng của Ngài đã vượt thoát mọi sự ràng buộc, dính mắc trong cuộc đời, mà vẫn giúp cho mọi người sống có yêu thương bằng trái tim hiểu biết, và làm chủ bản thân để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật. Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, để cùng nhau sống với trái tim hiểu biết.
Người Phật tử nên đến với đạo Phật bằng sự hiểu biết chân chính, tự soi sáng lại chính mình và thấy rằng tất cả mọi hiện tượng sự vật đều nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống, chính vì vậy chúng ta phải sống đạo đức, tôn trọng luật pháp nhằm góp phần làm trong sạch và an lạc cho mình và xã hội.
Người Phật tử nên đến với đạo Phật bằng sự hiểu biết chân chính, tự soi sáng lại chính mình và thấy rằng tất cả mọi hiện tượng sự vật đều nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống, chính vì vậy chúng ta phải sống đạo đức, tôn trọng luật pháp nhằm góp phần làm trong sạch và an lạc cho mình và xã hội.
Thích Đạt Ma Phổ Giác