Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân Tông (I)


Với tư cách là một tôn giáo, Thiền tông không chỉ phá bỏ những quy tắc của Phật giáo truyền thống, mà còn cho rằng trong cuộc sống hàng ngày không nên dựa vào bên ngoài, chỉ cần dựa vào tự giác nội tại của thiền sư là có thể thành Phật.

Đây là sự chuyển biến từ loại tôn giáo lấy “nội tại siêu việt” làm đặc trưng sang loại tôn giáo phi tôn giáo lấy “nội tại siêu việt” làm đặc trưng, chuyển từ xuất thế sang nhập thế, từ đó giải quyết được khuynh hướng nhị nguyên.

Có thể nói, sự chuyển biến này mang trong mình khuynh hướng thoát ly mô thức tôn giáo truyền thống. Đối tượng chủ yếu mà Thiền tông Trung Quốc hướng đến là các thiền sư (phát huy tâm tự giác nội tại để giác ngộ), còn đối tượng mà Thiền phái Trúc Lâm hướng đến, ngoài cá nhân các thiền sư còn là toàn thể người Việt, không chỉ là cá nhân, mà còn là cả xã hội.

Điều này không chỉ thể hiện bởi lời nói và suy tư của Trần Nhân Tông, mà đặc biệt, nó còn thể hiện rõ ràng ra ở sự tu tập, ở cuộc đời và ở sự cống hiến của ông cho dân tộc Việt.

3. Học thuyết vô niệm

Pháp môn tu tập của đốn giáo là “ba không” (tam vô): vô niệm, vô tướng, vô trụ. Huệ Năng nói: “Chính giáo vốn không chia ra đốn và tiệm. Tính con người vốn có sắc bén và chùn nhụt, người mê thì tu dưỡng chậm, người ngộ thì tu dưỡng nhanh. Tự nhận thức bản tâm, tự nhìn thấy bản tính thì không có sai biệt" (Bản lai chính giáo, vô hữu đốn tiệm. Nhân tính tự hữu lợi độn, mê nhân tiệm khế, ngộ nhân đốn tu. Tự thức bản tâm, tự kiến bản tính, tức vô sai biệt);

“Thiện tri thức, pháp môn này của ta, từ xưa đến giờ, trước hết lấy vô niệm làm tông, vô tướng làm thể, vô trụ làm bản” (Thiện tri thức, ngã thử pháp môn, tòng thượng dĩ lai, tiên lập vô niệm vi tông, vô tướng vi thể, vô trụ vi bản. Vô tướng giả, ư tướng nhi ly tướng; vô niệm giả, ư niệm nhi vô niệm; vô trụ giả, nhân chi bản tính). Đây chính là công phu cốt yếu của Thiền tông.

“Ư tướng nhi ly tướng” tức là dù cho vạn tướng ngay trước mắt, tâm hành trong vạn tướng vẫn không bị vạn tướng điều khiển, giữ trọn sự thanh tĩnh tự thể. Nghĩa là, tính chủ thể không bị ràng buộc vào trong tính khách thể.

“Ư niệm nhi ly niệm” tức là đứng trên góc độ hoạt động tự thân của chủ thể, tuy chủ thể có mọi hoạt động kinh nghiệm, ý thức kinh nghiệm, nhưng vẫn không mất đi tính siêu việt và tự do của mình. Cho dù có niệm, nhưng vẫn không bị tạp nhiễm bởi niệm.

“Vô trụ” nghĩa là không dừng lại ở bất cứ cái gì trong vạn pháp, đây là năng lực vốn có của bản tính chủ thể, chính vì vậy mà mới có cái gọi là “bản tính con người”. Giáo lý thiền ngộ của Huệ Năng lúc nào cũng gắn chặt với tự do của chủ thể, nó không nằm ở các hoạt động ngoại tại(10).

Trần Nhân Tông cũng chủ trương thuyết vô niệm như Thiền Nam tông. Đối với ông, cần phải xuất phát từ nội tâm để chứng Phật tính, trên phương diện tu dưỡng, tâm không được chịu ảnh hưởng của ngoại vật, điều này chính là “vô niệm”: “Gìn tính sáng tính mới hầu an; Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác” (Cư trần lạc đạo, đệ nhị hội).

Phương pháp “nén niềm vọng” này vừa phải dựa vào phương pháp “vô trụ” (không chấp trước), vừa phải dựa vào phương pháp “vô tướng”.

Theo ông, nếu làm được như vậy, mặc dù ở trong cõi trần này, nhưng lại vô tạp vô nhiễm, thuận theo tự do, không có trở ngại, đạt tới sự giải thoát tinh thần.

Đoạn đối thoại giữa Trần Nhân Tông và đệ tử trước lúc ông lâm chung đã nêu bật lên tư tưởng này: “Giữa đêm mồng một tháng 11 năm 1308, Ngài hỏi Bảo Sát: ‘Hiện giờ là giờ gì?’ Bảo Sát bạch: “Giờ Tý”. Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem nói: “Đến giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu?”.

Ngài nói kệ đáp: “Tất cả pháp chẳng sinh, Tất cả pháp chẳng diệt, Nếu hay hiểu như thế, Chư Phật thường hiện tiền, Nào có đến đi gì” (Nhất thiết pháp bất sinh, Nhất thiết pháp bất diệt, Nhược năng như thị giải, Chư Phật thường hiện tiền, Hà khứ lai chi hữu dã).

Bảo Sát hỏi: “Chỉ như khi chẳng sinh chẳng diệt là thế nào?”. Ngài liền nhằm ngay miệng Bảo Sát tát cho một cái bảo: “Chớ nói mớ”. Nói xong, Ngài nằm nghiêng bên phải như sư tử, lặng lẽ mà tịch” (11).

Sở dĩ Bảo Sát bị tát khi hỏi “Chỉ như khi chẳng sinh chẳng diệt là thế nào?” chính là do trước khi đề cập đến “khi chẳng sinh chẳng diệt”, Bảo Sát đã chìm nhập vào trong sự chấp trước, tức là cảnh giới của “trụ” mà không đạt đến được “vô niệm”.

Ở đây, rõ ràng, Trần Nhân Tông có tiếp thu quan niệm trung đạo “bất sinh bất diệt” của Trung Quán tông. Điều này thể hiện tư tưởng Phật học của ông không chỉ chịu ảnh hưởng từ Thiền Nam tông, mà còn chịu ảnh hưởng từ các hệ phái khác.


Bởi theo ông, Thiền không phải là kinh viện, mà là cuộc sống, do đó cần phải “bất lập văn tự”, “trực chỉ nhân tâm”. Nếu như chấp trước vào “hữu cú vô cú” thì sẽ “dập đầu trán vỡ”, sẽ chỉ vô ích mà thôi.Trong bài kệ Hữu cú vô cú rất nổi tiếng của mình, Trần Nhân Tông đã nêu lên quan điểm “bất chấp tướng”, phá bỏ sự chấp trước giữa Hữu và Vô (12).


4. Tinh thần nhập thế tích cực

Một số học giả thường sử dụng khái niệm “bản địa hóa” khi đưa ra nhận định, đánh giá việc Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm đã kế thừa, phát triển Thiền Nam tông, thông qua Thiền Trúc Lâm để phản ánh một cách khái quát hiện thực cuộc sống dân tộc Việt và dùng Thiền Trúc Lâm để đưa ra lời giải cho các vấn đề xã hội và nhân sinh được xuất phát từ mảnh đất Việt Nam.

Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với cách sử dụng khái niệm “bản địa hóa”, song trong bài viết này, chúng tôi sử dụng khái niệm “Việt Nam hóa” chứ không phải là “bản địa hóa”; chủ yếu là để nhấn mạnh đến tính quốc gia dân tộc chứ không phải tính vùng văn hóa trong Thiền phái Trúc Lâm cũng như trong tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông.

Điểm khác biệt đầu tiên, dễ nhận thấy nhất giữa thiền phái Trúc Lâm và Thiền Nam tông Trung Quốc chính là ở người sáng lập của nó. Trước khi là Phật tử, Trần Nhân Tông là một hoàng tử, trước khi làm Trúc Lâm đầu đà, ông là vua của nước Việt.

Trần Nhân Tông là một vị vua được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử, hay “vua hiền đời Trần” (Trần triều chi hiền vương - Đại Việt sử ký toàn thư). Trong thời gian trị vì, ông đã lãnh đạo nhân dân qua 2 cuộc chống xâm lược Nguyên Mông (1285 và 1287).

Sau khi đánh thắng trận đánh quyết định Bạch Đằng, đứng trước lăng vua cha mình là Trần Thái Tông, nhìn chân những con ngựa đá trước lăng lấm lem do giặc đào phá, Trần Nhân Tông đã cảm khái thốt lên hai câu thơ nổi tiếng: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu) (13).

Trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ông đã nêu lên rất rõ quan niệm yêu nước, gắn chặt “tam hữu” với “tứ ân”: "Tụng kinh niệm bụt, Chúc thánh khẩn cầu, Tam hữu tứ ân, Ta nguyền được bả”. Trong đó," tam hữu là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu, đây chính là tam giới. Tứ ân là cha mẹ, chúng sinh, đất nước và tam bảo: hiếu dưỡng cha mẹ, quảng độ chúng sinh, bảo vệ đất nước và cung kính tam bảo"(14).

Thánh Nghiêm pháp sư cũng trích dẫn câu chuyện Đức Phật Thích Ca yêu nước và bảo vệ tổ quốc trong Kinh Tăng Nhất A-hàm để chứng minh Phật giáo không những có quan niệm về tổ quốc mà còn chủ trương biết ơn đất nước, yêu nước.

Tư tưởng của Trần Nhân Tông, nhất là tư tưởng thiền sau khi xuất gia, là tư tưởng nhập thế, kết hợp lý tưởng phật quốc và lý tưởng đất nước. Sau hai lần đại phá quân xâm lược triều Nguyên, ông thực hành chính sách trị quốc khoan hòa, ổn định xã hội, phát triển văn hóa.

Trong bài dẫn cho bức họa “Tranh Đại sĩ Trúc Lâm xuống núi” (Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ (15)) của học sĩ đời Nguyên là Trần Giám Như, Trần Quang Chỉ có đưa ra nhận xét như sau về Trần Nhân Tông: “Ông lấy lòng nhân để trị nước, lấy thành tín để phụng sự Trung Quốc, đối đãi với quần thần như tay chân, vỗ về muôn dân như con đỏ, rút bớt hình phạt, giảm nhẹ thuế khóa, thưởng phạt nghiêm minh” (Kỳ trị quốc dĩ nhân, kỳ sự Trung Quốc dĩ thành, ngộ quần thần như thủ túc, phủ bách tính như xích tử, khinh hình bạc phú, tín thưởng tất phạt).

Như trên chúng tôi đã trình bày, Trần Nhân Tông rất có ý thức trong việc xây dựng Thiền phái Trúc Lâm mang nét đặc sắc của Việt Nam. Ông sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, bên ngoài thì cử sứ thần sang Trung Quốc xin Đại tạng kinh, bên trong thì in ấn kinh điển Phật giáo, dựng chùa chiền, tô đắp tượng Phật.

Phật giáo là một học thuyết hướng dẫn con người thoát khỏi “biển khổ”, là một loại triết học xuất thế. Mục đích giải thoát cũng chính là điều Trần Nhân Tông, với tư cách người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, truy cầu.

Song, Trần Nhân Tông cũng đồng thời là một vị vua, hơn nữa lại là một vị vua có công lao to lớn đối với đất nước, nên mặc dù ông đã thoái vị xuất gia, nhưng vẫn còn nhiều quan hệ mật thiết với triều đình.

Để phát triển mạnh mẽ thế lực của Thiền phái Trúc Lâm, ông đã rất ý thức trong việc sử dụng các quyền lực thế tục của mình.

Tam Tổ thực lục còn ghi lại buổi lễ trọng thể Điều Ngự (tức Trần Nhân Tông) chính thức ủy cho Pháp Loa làm tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm, tham dự buổi lễ có cả vua Trần Anh Tông, các quan lại và tăng chúng nhằm củng cố uy tín của người lãnh đạo phái Trúc Lâm tương lai (16).

Tuy Trần Nhân Tông tôn sùng Phật học, nhưng thái độ của ông đối với các học thuyết khác là một thái độ cởi mở, tôn trọng và tiếp thu trên cơ sở Thiền.

Tam tổ thực lục còn ghi lại, năm Giáp Thìn (1304), Trần Nhân Tông “đi khắp các chốn thôn quê loại bỏ dâm từ, dạy dân thi hành mười điều thiện” (chu hành tụ lạc, hóa trừ dâm từ, giáo hành thập thiện).

Rõ ràng là Trần Nhân Tông muốn lấy giáo nghĩa Phật giáo để trị nước, lấy đạo đức Phật giáo làm tiêu chuẩn cho đạo đức xã hội.

Song, ở đây, cũng cần chú ý là, ông muốn loại bỏ dâm từ, song ông không có quan niệm về cái mà chúng ta gọi là “dị giáo”, không chủ trương loại bỏ các tôn giáo hay học thuyết khác để độc tôn Phật giáo.

Ông không chỉ chủ trương phát triển tính đa dạng Phật giáo lấy Thiền phái Trúc Lâm làm cốt lõi, mà còn có khuynh hướng phát triển tính đa dạng tư tưởng lấy Phật giáo làm nền tảng.

Chính vì vậy, ở thời ông và hầu hết cả thời Lý - Trần, bên cạnh việc Phật giáo được suy tôn thì Nho giáo và Đạo giáo cũng rất phát triển. Với tinh thần nhập thế, cởi mở và khai phóng như vậy, Trần Nhân Tông đã khiến giáo pháp Thiền phái Trúc Lâm trở thành cầu nối giữa triều đình và người dân. Thiền học của ông không chỉ dành riêng cho một tầng lớp quý tộc hay bó buộc trong triều đình, mà đối tượng của nó đã thực sự được mở ra cho tất cả mọi người, phù hợp với xã hội Việt Nam.

Nhìn từ góc độ tư tưởng, quan niệm “tức tâm tức phật” và “vô niệm” của Trần Nhân Tông đã phủ định mọi bó buộc từ bên ngoài, phá vỡ mọi chấp trước, loại bỏ mọi quyền uy của truyền thống cũng như của hiện tại, tất cả chỉ dựa vào tâm và từ góc độ này, con người có thể trở thành chủ thể của chính bản thân mình, tác dụng giải phóng tư tưởng này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong suốt chiều dài của xã hội chuyên chế phong kiến.

Song, thiền của ông không thoát ly cuộc sống, mà ngược lại, nó lúc nào cũng mang đẫm hơi thở của cuộc sống, chứng minh thiền của Trần Nhân Tông đã được sinh ra từ sự đau đáu với cuộc đời, với hạnh phúc nhân sinh.

Có thể Phật giáo quan niệm đời là bể khổ, song với Trần Nhân Tông, cuộc đời của mỗi người chính là một mùa xuân và phải sống làm sao để không uổng phí mùa xuân đó: “Chớ để luống qua mùa xuân một cách tầm thường” (Bất thị tầm thường không quá xuân).

Chú thích:

(1) Phương Hoài Nhẫn. Việt Nam Trúc Lâm phái Thiền tông sáng thủy nhân Trần Nhân Tông đích thiền học tư tưởng, Phật học nghiên cứu, số 3, 1994.

(2) Lê Mạnh Thát. Trần Nhân Tông: con người và tác phẩm. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, chương VII: Một số vấn đề tư tưởng Trần Nhân Tông.Trích từ trang web: http://www.thivien.net/

(3) Lê Mạnh Thát. Trần Nhân Tông: con người và tác phẩm. Sđd.

(4) Xem: Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, 1988, tr.247.

(5) Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). Thơ văn Lý Trần, t.II quyển thượng. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988; Cư trần lạc đạo phú, tr.497 - 510. Các đoạn trích dẫn sau từ bài phú này chúng tôi sẽ chỉ nêu số hội trong bài.

(6) Trích theo: Lê Mạnh Thát. Trần Nhân Tông: con người và tác phẩm (phần “Bài giảng tại Viện Kỳ lân”). Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.

(7) Xem: Lao Tư Quang. Tân biên Trung Quốc triết học sử (tái bản lần thứ 5), q.2, Tam dân thư cục, 1990, tr. 329.

(8) Ấn Thuận. Trung Quốc Thiền tông sử (xuất bản lần thứ 3). Giang Tây Nhân dân xuất bản xã, 2002, tr.2.

(9) Xem: Thang Nhất Giới. Tựa; Ấn Thuận. Trung Quốc Thiền tông sử. Sđd.

(10) Xem: Lao Tư Quang. Tân biên Trung Quốc triết học sử. Sđd., tr.332.

(11) Trích theo: Thích Thông Phương. Vua Trần Nhân Tông với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2006.

(12) Xem: Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). Thơ văn Lý Trần. Sđd., tr.489 - 450.

(13) Nguyễn Huệ Chi (chủ biên). Sđd., tr. 483.

(14) Thánh Nghiêm pháp sư. Chính tín đích Phật giáo, Pháp Cổ văn hoá, Đài Bắc, 1996, tr.129.

(15) Trong bài viết của mình, Phương Hoài Nhẫn chú thích là “Trúc Lâm đại sĩ xuất thế đồ”. Trích từ “Thạch cừ bảo cấp tục biên”, Càn Thanh cung tạng tam. Song, ở đây, chúng tôi dựa theo nguồn của tác giả Nguyễn Nam, “Diện mạo Trần Nhân Tông qua Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ”, Tạp chí Hán Nôm, số 2,1999.

(16) Xem: Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988, tr.247 - 249.

Nguyễn Tài Đông* (Tạp chí Triết học)

* Tiến sĩ Nguyễn Tài Đông hiện là Phó trưởng phòng Quản lý khoa học và Đào tạo,Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.